Nhà Mồ, và Tượng Mồ, là mảng đặc sắc của văn
hóa cổ truyền Tây Nguyên. Trong thời gian gần đây, truyền thống dựng nhà
mồ-tượng mồ chỉ còn thấy tập trung ở các dân tộc Ba na, Ê đê, Gia rai,
Mnông, Xơ Đăng.
Nhà mồ được xây trùm trên nấm mộ và là trung
tâm của lễ bỏ mả. Nhà mồ có nhiều loại khác nhau. Trang trí nhà mồ
thường sử dụng 3 màu: đen, đỏ và trắng....(còn tiếp)
Tượng hình người ôm mặt
Lớp tượng ôm mặt gồm có 5 bức, trong đó có 4
bức được chôn ở bốn góc nhà mồ, mặt tượng quay theo 4 hướng đông, tây,
nam, bắc, riêng mặt phía đông của ngôi nhà mồ có thêm 1 tượng ở chính
giữa hàng rào. Tượng ôm mặt (kra-kôm), tư thế ngồi xổm, hai khuỷu tay
chống lên hai đầu gối và hai bàn tay ôm lấy má.
Theo các tài liệu nghiên cứu, lớp tượng này
được coi là lớp tượng cổ nhất. Những người địa phương gọi tượng là
kra-kôm; kra theo tiếng Gia-rai nghĩa là "con khỉ", theo đồng bào giải
thính đó chính là nô lệ (hlun) thường được chôn theo người chết, sau này
người ta không chôn theo nô lệ nữa mà thay thế bằng tượng gỗ. Theo
giai thoại kể lại: trong xã hội cổ truyền của người Gia-rai có một số
tù trưởng hùng mạnh có quyền bắt và nuôi nô lệ trong nhà, những nô lệ
này cũng chỉ được coi như vật ngang giá như những đồ vật khác, và khi
người tù trưởng chết, nô lệ cũng được chôn theo như đồ tuỳ táng.
Có một cách giải thính khác của tiến sỹ Ngô
Văn Doanh về lớp tượng này khi ông dựa vào tư thế của bức tượng hình
người ôm mặt, ông cho rằng đó là "những sinh linh ngồi trong tư thế bào
thai".
Có một cách giải thích khác là: Theo phong
tục, khi chưa làm lễ bỏ mả cho người chết, hàng ngày người thân trong
gia đình phải mang cơm, nước ra mộ để nuôi mả, nghĩa là đem cơm nước cho
người chết ăn, uống. Người thân ngồi khóc, kể lại những kỷ niệm của
người chết khi còn sống. Lúc khóc người ta thường ngồi xổm, hai tay
chống hai đầu gối, bàn tay ôm lấy má của mình, tư thế này được coi là
phổ biến trong bất cứ khu nghĩa địa nào của người Gia-rai ở Tây Nguyên.
Việc thăm nuôi mả chỉ được kết thúc khi người ta tiến hành nghi lễ bỏ mả
để giải thoát cho ma của người chết về với tổ tiên. Để chuẩn bị cho
cuộc chia tay vĩnh viễn đó người chủ hộ thường đẽo lấy tượng có tư thế
ôm mặt rồi dựng tại nhà mồ, coi nó như một người trong gia đình, hàng
ngày vẫn đến thăm nuôi, ngồi bên mộ buồn khóc người đã chết.
Lớp tượng thứ 2
Lớp tượng liên quan đến tín ngưỡng phồn thực với nhiều dạng như: nam nữ giao hợp; đàn ông đàn bà khoe bộ phận sinh dục...
Hàng rào mặt phía đông của nhà mồ này có: 3
cặp nam nữ giao hợp (đơ-mơi-tui sang), 1 tượng đàn bà chửa
(gra-bor-bi-mau cây), mặt phía tây có: 1 tượng đàn bà chửa, một tượng
đàn ông khoe dương vật (rúp-dak-kơng), 1 tượng phụ nữ cởi truồng
(gra-lâu-hyôn), mặt phía nam: 1 tượng đàn bà chửa, mặt phía bắc có: một
tượng đàn bà ở truồng, 1 đàn ông khoe dương vật.
Trước đây những nghiên cứu về Tây Nguyên cho
thấy, trên các cột kút và cột klao ở nhà mồ thuộc nhóm Gia-rai khác
thường có trang trí cặp ngà voi tượng trưng cho cặp vú, dưới cặp vú –
ngà voi thường được khắc hình âm vật cách điệu dưới dạng các hình hoa
thị, chữ thập, cũng trên các cặp cột này luôn luôn có hình cặp đùi,
háng, bẹn và âm hộ bà Hơkroih, biểu tượng của phồn thực của cư dân nông
nghiệp.
Những cặp tượng nam nữ giao hoan được khắc
họa một cácch tự nhiên với nhiều tư thế, tư thế nào cũng mang tính chủ
động. Xuất phát từ trực quan, từ mối liên hệ nhân quả của các sự kiện,
hiện tượng trong cuộc sống, sau khi khắc họa những cặp tượng giao hợp
của đôi nam nữ, người thợ Gia–rai đã đẽo tượng đàn bà chửa thể hiện hệ
quả tất yếu của hoạt động tính giao.
Những bức tượng nam nữ giao hợp, nam nữ phô
bày bộ phận sinh dục, đàn bà chửa được chôn ngay trên mộ của người chết,
không đơn thuần chỉ là để làm cho không khí nhà mồ thêm vui nhộn trong
buổi lễ bỏ mả như cách giải thích của một số người Gia-rai, mà nó còn
gắn liền với một niềm tin về sự chấm dứt của cái chết và sự bắt đầu của
một cuộc sống mới, vượt lên cái chết là những hoạt động nhằm sinh sôi
nảy nở cuộc sống mới, tạo ra những mầm mống phôi thai của một cuộc sống
mới.
Cho nên, không có gì đáng ngạc nhiên, trong
những đêm diễn ra lễ hội bỏ mả, theo một số người già đã từng tham gia
lễ hội bỏ mả cánh đây mấy chục năm cho biết, từng là những đêm hoàn toàn
tự do đối với nam nữ chưa vợ chồng. Lễ hội bỏ mả còn được coi như ngày
giải phóng đối với đàn ông goá vợ, đàn bà goá chồng thoát khỏi sự ràng
buộc vợ-chồng với người đã chết, sau lễ hội này người ta có thể kết hôn
với người khác mà không sợ phạm vào điều cấm kỵ của luật tục. Đúng như
nhận xét: "đây là thời điểm giao thoa giữa Chết và Sống, từ Chết trở về
với Sống, giữa cảnh Chết mà chuẩn bị cho cuộc Sống. Cũng vậy, về đôi nam
nữ trần truồng thường chiếm vị trí quan trọng nhất giữa các tượng bao
quanh "nhà ma"
Lớp tượng thứ 3
Tượng người mặt dài (nuih-ha-bok-ró). Tượng được thể hiện với hình dáng người không có thân, cổ hình cây rau dớn (ktoanh), khuôn mặt được đẽo dài.
Người ta cho biết bức tượng này chính là biến
thể của bram, người được hoá trang và rời khỏi nhà mồ cuối cùng trong
lễ hội bỏ mả. Theo phong tục địa phương bram thường là hai thanh niên
khỏe mạnh, mặc áo lá chuối, trát đầy bùn đầy người, đầu cắm lông chim,
luôn nhảy múa quanh nhà mồ. Vì theo quan niệm của người Gia-rai bỏ mả là
ngày vui cuối cùng với người chết, ngày vui sắp hết, người ta sợ ma
(a-tâu) sẽ theo người thân về làng phá rối cuộc sống yên lành của người
sống, nên dân làng đã hoá trang ra những hình người bram gớm ghiếc để ma
sợ hãi, không nhận ra người thân, người cùng làng mà theo về.
Những bram này phải rời khỏi nhà mồ trước khi
Mặt Trời lặn vì ở cõi âm ngày là đêm, ánh sáng trên cõi dương chưa kịp
tắt thì vẫn là đêm tối mông lung ở cõi âm, vì vậy mà ma cũng chẳng nhớ
đường trở về làng của người sống. Sau cùng để cho thật sự yên tâm, phòng
tránh khả năng ma theo người về làng quấy phá người sống, trong khi đẽo
tượng người ta đẽo lấy một hình người mặt dài mô phỏng hình ảnh của
bram rồi chôn ở nhà mồ, coi tượng bram như một thứ bùa áng ngữ lối về
của ma.
Các tượng khác
Là lớp tượng ra đời muộn hơn, tượng diễn tả
những sinh hoạt thường ngày của người dân Gia-rai. Từ cuộc sống, thông
qua ngôn ngữ tạo hình, hoạt động của con người đi vào trong tác phẩm
điêu khắc một cách tự nhiên, gợi cảm. Đặc biệt là những bức tượng thể
hiện những hoạt động của con người trong đêm lễ hội bỏ mả.
Tượng cô gái chia cơm lam
(gra-nhá-brơng-kuach), được gắn với bữa ăn bỏ mả truyền thống của người
Gia-rai, một bữa ăn có tính cộng đồng lớn nhất. Trong bữa ăn bỏ mả, tất
cả mọi người đến dự lễ đều được ăn, được uống, được mang phần về nhà
mình. Từ tối hôm trước của ngày bỏ mả chính (ngày vỡ-pchă), món cam lam,
hay còn gọi là món cơm nướng trong ống (brơng-kuach) thường được những
cô gái Gia-rai trẻ chuẩn bị trong gùi, hoặc ôm vào lòng đem chia cho
những người dự lễ bỏ mả đang nhảy múa xung quanh ngôi nhà mồ.
Tượng người đánh trống (poh-gơr-pah), tượng
này thể hiện diễn xướng tổng hợp về âm nhạc và dân vũ của người Gia-rai.
Âm nhạc trong lễ bỏ mả, lúc sắp kết thúc tiết tấu bản nhạc trở nên rộn
rã trầm hùng mất đi cảm giác bi lụy.
Ngoài tượng người, tượng chim thú cũng là một
chủ đề mà người Gia-rai thường đẽo khi dựng nhà mồ. Theo người dân địa
phương, tượng chim chủ (kơ-poh-pôm) được coi là vua của nhà mả, mỗi khi
dân làng chuẩn bị lễ bỏ mả thì chim thường bay về đậu tại khu nghĩa địa
và cất tiếng kêu tu tít, tu tít, người ta coi đây là một dấu hiệu tốt
lành để tiến hành nghi lễ bỏ mả cho đúng mùa.
Một số cụ già ở xã Iamnông kể lại theo truyền
thuyết cổ làng của ma ở phía tây nơi Mặt Trời lặn (hrơilek) và vị
trưởng làng là con chim ó, vị phó làng là con khỉ gió (kra-le) cai quản
các ma. Do vậy ở những ngôi nhà mả người ta thường tạc tượng chim chủ
này và chôn ở mặt phía tây của nhà mồ, mặt được đặt đầu người chết, và
coi bức tượng chim kơ-poh-pôm như một vị thần bảo vệ lấy ngôi nhà mả,
bảo vệ a-tâu.
Trong những năm gần đây loại hình tượng nhà
mồ có nhiều thay đổi, bên cạnh những lớp tượng được coi là cổ đã xuất
hiện nhiều kiểu tượng phản ánh cuộc sống mới của người Gia-rai. Người ta
có thể thấy tượng lính Mỹ, tượng cô đầm, học sinh đi học, người đá
bóng... với nét tạc khắc tả thực khá tinh vi. Song, bên cạnh đó lớp
tượng được coi là cũ về mặt phong cách, vẫn được bảo tồn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét