Thuyết minh tỉnh Ninh Thuận
TỈNH NINH THUẬN
* Diện tích: 3.427 km2
* Dân số: 483.400 người
* Tỉnh lỵ: Phan Rang
* Tỉnh Ninh Thuận bao gồm thị xã Phan Rang và ba huyện: Ninh Sơn, Ninh Hải và Ninh Phước.
* Ninh Thuận là 1 tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam, Bắc giáp
Khánh Hòa, Tây giáp với Lâm Đồng, Nam giáp với Bình Thuận và Đông giáp
biển Đông. Ninh Thuận được bao bọc bởi 3 mặt là núi: phía
Bắc và Nam là 2 dãy núi nhô ra biển, phía Đông là vùng núi cao của
tỉnh Lâm Đồng. Địa hình có 3 dạng: miền núi, đồng bằng, vùng ven biển.
Nơi đây có hai hệ thống sông chính đó là: hệ thống sông
Cái bao gồm các sông nhánh như sông Mê Lam, sông Sắt, sông Ông, sông
La, sông Quao … và hệ thống các sông suối nhỏ phân bố ở phía Bắc và Nam
của tỉnh như sông Trâu, sông Bà Râu.
Ninh Thuận nằm trong vùng khô hạn nhất nước ta, khí hậu nhiệt đới
gió mùa với các đặc trưng là khô nóng, gió nhiều và bốc hơi mạnh, không
có mùa đông. Nhiệt độ trung bình năm là 270C, lượng mưa
trung bình 705 mm và tăng dần theo độ cao lên đến 1100 mm ở vùng
miền núi. Một năm có 2 mùa: mùa mưa từ tháng 5 ->11 và mùa khô từ
tháng 12 ->5 năm sau.
Vì có khí hậu và vùng đất không được như những vùng khác trong nước
nên Ninh Thuận có những vùng chuyên sản xuất chuyên canh như nho, thuốc
lá, mía, đường, bông, tỏi, hành và nuôi trồng thủy sản
vì nơi đây là vùng ven biển.
Ninh Thuận là 1 bức tranh hài hòa giữa đồng bằng, đồi núi và biển
cả. Nằm trong cụm du lịch quốc gia thuộc tam giác Đà Lạt-Nha Trang-Phan
Rang. Ninh Thuận có vườn quốc gia Núi Chúa…
Ninh Thuận là một tỉnh phía nam miền Trung Việt Nam. Đây là mảnh đất
sinh sống của một số lượng lớn những người Chàm. Trong lịch sử, dân tộc
Chàm đã từng là một quốc gia hùng mạnh và tại đây còn
nhiều những di tích lịch sử và văn hóa của người Chàm cổ như Tháp
Chàm, ... Tất cả tạo nên một sức thu hút lớn cho du khách.
Ninh Thuận nằm dọc theo bờ biển, chính điều này đã đem đến nhiều bãi
biển đẹp và nguồn hải sản dồi dào tạo thế mạnh rất lớn cho việc phát
triển kinh tế của tỉnh.
Thị xã Phan Rang
Dân số khoảng 80.000 người, nằm bên bờ sông Cái. Khu vực Phan Rang
có nhiều người Chăm sinh sống. Phan Rang có nho là đặc sản nổi tiếng.
Tại trung tâm thị xã có một ngã ba rẽ trái 110 km là đến
Đà Lạt. Đồng bằng Phan Rang trù phú nhờ công trình đập thủy điện Đa
Nhim.
Dân tộc Chăm
Người Chăm còn có tên gọi là Chàm, Chiêm, Chiêm Thành… Người Chăm có
dân số 98.971 người thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo. Vương quốc Chămpa tồn
tại từ thế kỷ II đến đầu thế kỷ XVII. Lãnh thổ kéo dài từ
Quảng Bình đến Bình Thuận, số còn lại cư trú ở An Giang, Phú Yên,
TP.HCM, Bình Định, Tây Ninh. Vào thế kỷ XV sau những lần giao tranh với
Đại Việt thất bại, một số người đã chạy sang Campuchia.
Đến thế kỷ XVII họ lại trở về. Vào những năm 1940 do chiến tranh họ
lại di chuyển lên sống và định cư ở TP.HCM.
Dân tộc Chăm có hai bộ phận Cau và Dừa, giữa hai bộ phận này thường
xảy ra tranh chấp cho đến thế kỷ II sau công nguyên, Khu Liên chống lại
nhà Hán lập ra Lâm Ấp, sau đó cháu là Phạm Phật đã
thống nhất hai bộ phận này và lập ra nước Chămpa. Kinh đô của nước
Chămpa lúc đó là Trà Kiệu cách Đà Nẵng 70 km về phía Tây Nam mà sử gọi
là Sinhapura (thành phố sư tử) nằm bên bờ sông Thu Bồn
nay thuộc xã Duy Sơn.
Từ thế kỷ IX kinh đô được chuyển ra phía Bắc tại làng Đồng Dương nằm
bên bờ sông Ly Ly, là một nhánh sông Thu Bồn, cách cố đô Trà Kiệu 25 km
về phía Nam có tên là Indrapura, vương triều này còn
gọi là vương triều Phật Giáo vì trong giai đoạn này Phật Giáo phát
triển thành quốc giáo lấn áp cả Ấn Giáo. Đồng Dương là nơi tập hợp đền
chùa, cung điện chứ không tách ra như vương triều trước.
Vào cuối thế kỷ X, kinh đô Đồng Dương bị tấn công nhiều lần nên vào
những năm 1000 thì dời về Đồ Bàn với trung tâm được đánh dấu là tháp
Cánh Tiên.
Làng của người Chăm gọi là Plây, xung quanh không có cây cối hoặc
chỉ có vài cây me vì họ cho rằng ma quỷ trú ngụ trên những cây to. Nhà
được xây dựng về hướng Nam. Một gia đình sống trong khuôn
viên có hàng rào bằng cây khô. Người Chăm sống theo chế độ mẫu hệ.
Mỗi gia đình có những ngôi nhà xây cất gần nhau theo một trật tự gồm:
một căn nhà lớn cho cả nhà gọi là Thang Yơ, đến khi con
gái lớn lấy chồng thì mọi người nhường căn nhà đó cho cô và cất căn
nhà khác bên cạnh gọi là Thang Mưyân. Khi cô con gái thứ hai lấy chồng
cô cả phải ra ở cạnh để nhường cho cô em. Cô con gái út
được hưởng nhà đó và có nhiệm vụ giữ Chick Atâu-là một cái giỏ tre
đựng đồ quý của gia đình để cúng giỗ gia đình.
Người Chăm ăn cơm gạo được nấu trong nồi đất. Thức ăn gồm thịt, cá,
rau củ do săn bắt, hái lượm, chăn nuôi. Người Chăm ở Bình Thuận, Ninh
Thuận ăn bằng đũa. Người Chăm theo đạo Hồi không ăn thịt
bò vì bò là vật linh thiêng. Họ cũng không ăn heo vì heo là con vật
dơ bẩn. Họ có món canh Vabai nấu bằng lá rừng trộn thịt, bột gạo rồi
khuấy đều. Món cháo chua, bánh nhân chuối. Thức uống có
rượu cần, rượu gạo.
Nói đến người Chăm không thể không nói đến tháp Chàm. Kỹ thuật để
xây dựng tháp Chàm ngày nay vẫn còn là một dấu chấm hỏi lớn đối với các
nhà nghiên cứu. Tháp được làm bằng gạch Chăm, gạch có
kích thước khoảng 31cmx 17cmx 5cm. Chúng được xếp chồng khít lên
nhau mà chúng ta không thể nào nhìn thấy những mạch hồ. Thế tại sao nó
có thể đứng được? Có người cho rằng người Chăm xây tháp
bằng gạch mộc gọt lên đó rồi nung khối tháp trong một ngọn lửa khổng
lồ. Giả thuyết này không có sức thuyết phục vì gạch mộc thì làm sao
chịu được sức nặng của ngôi tháp và khi nung thì làm sao
những viên gạch ở những bức tường dày 1-1,5 m ấy lại có độ nung chín
đều như những viên gạch trong lẫn ngoài như thế. Lại có người cho rằng
người Chăm dùng một thứ nhựa thực vật để làm hồ dán
những viên gạch lại với nhau. Có người cho rằng đó là mủ cây xương
rồng trộn với mật đường nhưng lại có người cho rằng đó là dầu rái để gắn
những viên gạch lại với nhau. Sự tinh tế của các tháp
Chàm còn thề hiện ở vô số hình chạm khắc tỉ mỉ, trau chuốt cho nghệ
thuật đục đẽo trực tiếp lên tường tháp sau khi tường tháp đã được xây.
Tháp thường có ba tầng, càng lên cao càng thu hẹp lại,
mỗi tầng mô phỏng lại vòm cuốn của cửa chính và cửa giả. Ở góc mỗi
tầng tháp đều có hình tháp thu nhỏ và rất nhiều vật trang trí phụ bằng
sa thạch thể hiện hình tiên nữ Apsara, chim thần Garuda,
bò thần Nandin… Tất cả những chủ đề trang trí đều được thể hiện bên
ngoài tháp, tường trong tháp bao giờ cũng để trơn. Trên chóp tháp là một
khối đá nhọn đặt ngay giữa đỉnh.
Cừu Ninh Thuận
Đi trên QL1A đoạn đi ngang qua tỉnh Ninh Thuận người ta hay bắt gặp
những đàn cừu thả rong trên những cánh đồng. Có lẽ, nhiều người ngạc
nhiên khi thấy loài vật này sống trong vùng khí hậu khô
hanh và cằn cỗi nhất nước ta. Chỉ trừ những đồng lúa là có màu xanh
mượt, còn lại là những bụi cỏ, những cánh rừng bụi thấp thì đều cháy khô
hoặc xơ cành lá. Đàn cừu đang ăn bên khu rừng toàn
những cây gai xương rồng và những lùm cây dại trơ cành. Cừu hiện ra
trên những ngọn đồi xavan, cừu đi trên đường làng, cừu đứng trên sân,
trên sàn chuồng trước nhà. Thịt cừu ngon và bổ, là một
trong những loại thịt đắt giá trên thị trường hiện nay. Nhưng để
sống được nơi có khí hậu khắc nghiệt: nắng nóng, thảo trường vốn có
nhiều cây gai hơn cành lá, sỏi đá nhiều hơn cỏ tươi, lũ cừu
phải gặm tất tần tật những gì có ở bãi chăn này: từ cỏ khô, gốc ra,
chồi lá dại đến cả cây xương rồng, cây bồn bồn…
Cừu đực 5 tháng tuổi đã có biểu hiện phối giống, nhưng người ta
thường sử dụng lúc 10 tháng tuổi. Cừu cái 6 tháng đã động dục và tuổi
phối giống đầu tiên thường vào lúc 9 – 10 tháng. Thời gian
mang thai khoảng 150 ngày, chu kỳ động dục từ 16 – 17 ngày, mùa động
dục không rõ rệt nhưng vào các tháng mùa xuân mát mẻ thường động dục
nhiều và tỉ lệ thụ thai cao. Là loài gia súc mắn đẻ, cứ
mỗi 2 năm cừu đẻ 3 lứa, mỗi lứa thường là 1 con có khi 2, 3 con.
Theo bà con ở đây thì đàn cừu đã có từ hơn 100 năm do người Chà Là (
An Độ ) mang tới. Cũng có vùng nói là do các giáo sĩ người Pháp mang
tới cho giáo dân, do đó kinh qua rất nhiều trôi nổi bà
con giáo dân không muốn bỏ con cừu , tượng trưng cho quà tặng của
Chúa.
Có điều chắc chắn có thể nó là giống cứu này là cừu thịt xuất xứ từ
vùng nhiệt đới. Có nhiều khả năng là từ An Độ nơi có khí hậu nóng. Bởi
vì sức sống của đàn cừu Phan Rang chứng tỏ tổ tiên chúng
chắc rất thích nghi với vùng nắng nóng. Chúng tôi đang khảo sát kỹ
thêm về nguồn gốc của đàn cừu ở đây để xem nó mang đặc trưng của giống
cừu nào trên thế giới. Có một điều đáng chú ý là đuôi của
giống cừu này không bao giờ vượt quá khuỷu chân. Như vậy nó thuộc
loại hình đuôi ngắn mảnh. Theo bản đồ phân bố cừu của C. Dervendra và
GB. Meloroy thì giống cừu này không thấy ở An Độ, Pakistan
và một số nước Châu Phi. Không phủ nhận được rằng qua bao nhiêu
thăng trầm, chịu đựng quen với điều kiện sinh thái nơi này, con cừu Phan
rang đã rất thích nghi và mang dấu ấn của môi trường sinh
thái nơi đây và ta có thể xem nó như một giống cừu của nước ta.
Lông của cừu Phan Rang chưa đựơc sử dụng có lẽ vì đàn cừu quá ít và
thịt cừu ở xứ nóng nên lông không nhiều. Tỉ lệ da thường chiếm 8 % trọng
lượng cơ thể, da cừu tốt, đàn hồi tốt là mặt hàng được
ưa chuộng.
Cừu thịt: cừu nuôi bán thịt phải nhốt riêng, tránh quậy phá làm hư
hỏng chuồng trại. Trước khi xuất chuồng 2 tháng phải nhốt riêng để bổ
sung thức ăn (vỗ béo) nhằm nâng cao năng suất, chất lượng
và hiệu quả chăn nuôi.
Cây Nho
Nho gốc ở các miền ôn đới khô Châu Á, cũng có các giống khác ở châu
Mỹ nhưng chưa trồng với quy mô sản xuất ở Việt Nam. Nho trồng nhiều ở
Phan Rang vì ở đây có những điều kiện thuận lợi nhất. Ở
nhiều nơi khác vẫn vó thể trồng nho kinh doanh nhưng phải có điều
kiện là mùa khô 4 – 5 tháng nắng và đất không bị úng nước vào mùa mưa do
rễ nho là nơi xúc tích dự trữ của cây nên rất mẫn cảm
với tình trạng thiếu oxy. Là cây trồng theo kiểu dây leo trên giàn.
Đầu tiên người ta làm dàn bằng gỗ cao khoảng 1,6 – 1,8m và những nhánh
nho được trồng cho bám leo lên giàn hơn 1 năm, nho sẽ
cho ra trái, tuổi thọ nho khoảng 7 – 10 năm, một năm có 3 mùa thu
hoạch, trung bình 2,5 tấn/mùa/ha. Trung bình 1 ha nho cho lợi nhuận gấp
10 lần trồng lúa.
Tỏi
Hành tỏi là hai cây truyền thống phù hợp với điều kiện đất đai và
tập quán của người dân địa phương. Trước đây mưa thuận gió hoà, mỗi năm
nông dân gieo trồng 4 vụ hành đỏ với diện tích 350 - 400
ha, sản lượng đạt trên 5000 tấn. Củ chắc, hương vị thơm nồng đã tạo
thành thương hiệu hành đỏ Mỹ Tường nổi tiếng cả nước. Hành khô từ Nhơn
Hải được các thương lái thu mua cung ứng cho các giống
địa phương trong và ngoài tỉnh.
Củ hành bán cho bà con làm giống, còn lá hành đỏ vừa bổ dưỡng ngang
như cỏ voi vừa nâng cao khả năng sinh sản. Dê cừu ăn lá hành rất mắn đẻ
và phòng chống được một số bệnh về đường ruột. Là hành
khô bảo đảm khả năng “ làm việc ” rất tốt của dê đực trong việc duy
trì nòi giống.
Tháp Hoà Lai
Cụm tháp Hòa Lai, còn có tên Ba Tháp, nằm ven quốc lộ 1A cách Phan
Rang 14km về phía bắc; thuộc làng Ba Tháp xã Tân Hải huyện Ninh Hải-Ninh
Thuận; được xây dựng từ đầu thế kỷ thứ 9. Cụm tháp đã
từng được các nhà nghiên cứu phương Tây đánh giá là kiến trúc tháp
cổ và đẹp nhất của Chămpa. Đáng tiếc là nay tháp chính đã bị sụp đổ chỉ
còn lại tháp Bắc và tháp Nam nhưng cũng trong tình trạng
hoang tàn. Di tích là thân tháp hình khối lập phương khỏe khắn nhô
lên từ một phần bệ vuông và đỡ cả một hệ thống các tầng nhỏ dần vẫn còn
những hoa văn điêu khắc rất tỉ mỹ rất đẹp trên vòm cửa,
trên các trụ ốp, trên bộ diềm mái.
Tháp Bắc có 4 trụ bổ tường, mỗi trụ được trang trí rất đẹp và hình
tượng chim Garuda giang rộng cánh. Trên mỗi đầu các trụ bổ của các mái
chìa có các diềm mũ để trang hoàng. Các cửa giả được
trang trí với những vòng cung và những hình người được thể hiện
trong tư thế ngồi. Hình thức trang trí ở tháp Nam đơn giản hơn, cũng có 4
trụ bổ tường với những đường nét bên dưới và những diềm
mũ với các hoa văn trang trí ở mái chìa, các cửa giả được trang trí
vòng cung lớn nhưng không tỉ mỉ như tháp Bắc. Tháp có ba tầng mái, mỗi
tầng có một hốc giả tang trí bởi các vòng cung.
Làng dệt Mỹ Nghiệp
Cách thị xã Phan Rang khoảng 7 km về phía Nam. Tại quốc lộ 1A chúng
ta gặp ngã ba Mỹ Hiệp, tại trung tâm Phước Dân, huyện Ninh Phước, quẹo
phải vào khoảng 3 km. Qua khỏi cánh đồng lúa ta đến
làng. Tại đây có khu phố mà 90 % gia đình làm nghề dệt. Người ta dệt
theo phương pháp cổ truyền khung cưởi, con thoi. Thu nhập trung bình
đạt 350.000 đồng người/tháng. Sản phẩm là ví tay, giỏ
xách, ba lô, khăn, chăn, quần áo… bán lẻ tại chỗ và chở về thành phố
Hồ Chí Minh và các nơi khác để bán. Đây cũng là nghề truyền thống của
người Chăm. Người ta tin rằng bà PôNaGa đã dạy cho họ
dệt vải. Ngày xưa họ phải trồng bông, se sợi, nhuộm bằng lá hoặc vỏ
cây rừng. Hoa văn chân chó, chân chim cút, hoa mào gà, hoa sao,… thường
thấy ở khăn choàng, dây đeo lưng, trang phục nữ. Con
chim thần, rồng đất là những hoa văn dành riêng cho các vị chức sắc.
Vài nét về lịch sử
Cho đến bây giờ, các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định được nghề dệt
thổ cẩm Chăm hình thành và phát triển như thế nào trong quá trình lịch
sử. Truyền thuyết về Bà Chúa Xứ kể rằng: Po Inư Nagar từ
Trung Quốc trở về, đã đặt kinh đô Champa ở Nha Trang và dạy người
Chăm - lúc đó còn trong thời kỳ mông muội - cày cấy, dệt vải, xây tháp,
tổ chức hành chánh...
Theo Lê Quí Đôn (Vân Đài Loại Ngữ ): “ Ở Lâm Ấp có trồng cây cát
bối, khi chín hoa cây giống như lông ngỗ, kéo sợi làm chỉ dệt khăn không
khác gì loại gai”. Còn theo G. Maspero thì dưới thời các
vương triều Champa, người Chăm đã biết trồng dâu, nuôi tằm và dệt
lụa. Trông suốt chiều dài lịch sử từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ XVIII,
người ta tìm thấy các nét hoa văn được chạm trổ thật
tinh vi trên các tượng đá (Shi va, Apsara...), vương mão (Po Mưh
Taha - đầu thế kỷ thứ XVII) hiện vẫn còn được lưu giữ ở một làng Raglai
tỉnh Ninh Thuận. Từ các cứ liệu này, chúng ta khẳng định
rằng nghề dệt thổ cẩm Chăm đã hình thành từ rất sớm và đã phát triển
đến mức tinh xảo.
Cái tên Mỹ Nghiệp thật xứng với sản phẩm của làng nghề.
Người ta không rõ nghề dệt thổ cẩm của Mỹ Nghiệp đã có từ bao giờ,
chỉ biết từ xưa gia đình nào trong làng cũng có ít nhất một khung cửi vì
thế mà các bé gái 6, 7 tuổi đã tự nhiên mà biết dệt. Tự
nhiên bởi có ai lại có thể dửng dưng, không ao ước tự tay dệt ra
những hoa văn mê hoặc ấy.
Ngày nay, người ta dệt bằng hai loại khung: khung ngắn dùng 7 cây go
bằng tre để tạo hình hoa văn, hoàn thành trong ba ngày cho tấm thổ cẩm
0,9mx3,4m; khung dài dùng bảy hòn go bằng đá san hô
buộc bằng dây cho tấm thổ cẩm ngang 2-30cm, dài 100-120m, hoàn thành
trong 25-30 ngày.
Sản phẩm từ thổ cẩm như áo, khăn, túi xách... rất đẹp bán tại làng
Mỹ Nghiệp với giá rất rẻ. Chỉ hơn phân nửa giá bán tại cửa hiệu ở thành
phố Hồ Chí Minh.
Làng Mỹ Nghiệp gồm có 485 hộ, 3000 khẩu. Người Chăm xưa trồng bông
sợi và lấy cây lá làm thuốc nhuộm để dệt nên những tấm thổ cẩm bền, đẹp,
màu sắc không phai. Bí quyết dệt vẫn còn gần như nguyên
vẹn, nhưng kỹ thuật nhuộm và một số mẫu hoa văn đã bị thất truyền.
Bù lại một số nghệ nhân tâm huyết đã dày công sưu tập, các mẫu hoa văn
qua sách cổ, từ bốn loại hoa văn chín là bông mai, hình
thoi chân chó và gùrek mà cách điệu lên thành nhiều mẫu hoa văn mới
lạ làm tăng thêm sự phong phú cho sắc màu thổ cẩm. Sợi thì nhập khẩu từ
Hungary để đáp ứng nhu cầu tăng nhanh của thị trường và
để kinh tế hơn. Nhiều khách cho rằng thổ cẩm Mỹ Nghiệp nổi tiếng và
ăn khách khắp trong Nam, ngoài Bắc và ra tận nước ngoài, chính là nhờ
những đôi tay mềm mại, chăm chỉ và khéo léo của những
thiếu nữ Chăm.
Nhiều nhà nghiên cứu dân tộc và mỹ nghệ thủ công, khái quát rằng
những hoa văn, sắc màu trên nền vải thô của Mỹ Nghiệp thực chất là ngôn
ngữ giao tiếp, là “phương tiện” để nói với khách phương xa
về một nền văn hóa tiềm ẩn trong từng viên gạch, mái nhà, núi đồi,
suối thác của vùng đất cực nam Trung bộ. Do vậy, nhiều khách nước ngoài
mừng như bắt được vàng khi tất bật quay phim, chụp ảnh
và mua tận tay những tấm thổ cẩm do chính bà con làm ra. Bà Phú Thị
Mỡ đứng đầu một trong nhiều “tổ hợp” của làng. Bà là người hết lòng
truyền nghề cho lớp thanh niên mới lớn. Bà Mỡ cho rằng thổ
cẩm của làng đi xa là nhờ các thợ cả hết lòng giữ lại những nét hoa
văn đặc trưng. Thổ cẩm Mỹ Nghiệp do vậy khó nhầm lẫn với các làng dệt,
các dân tộc khác.
Trưởng thôn Mỹ Nghiệp, ông Hàm Minh Thiều nhớ lại trước kia hơn 100
ha đất nông nghiệp của thôn không nuôi nổi làng. Từ khi ngành văn hóa,
du lịch phát hiện, đã nỗ lực quảng bá thổ cẩm dân tộc,
đã góp phần làm khôi phục lại nghề truyền thống. Tiền công cho thợ
dệt mỗi ngày được hưởng tới 25.000-30.000đ. Mối lái khắp nơi nườm nượp
đến ký hợp đồng đặt hàng. Nhiều hộ lên đến 10 khung dệt,
mỗi tháng thu nhập từ 3-5 triệu đồng. Thanh niên nam nữ Chăm lập gia
đình đều xây nhà đẹp, sắm xe máy, video. Thiếu niên Mỹ Nghiệp vào
trường dân tộc rồi lên đại học cũng là nhờ nghề dệt truyền
thống. Thế nhưng hơn một năm nay thổ cẩm Mỹ Nghiệp bỗng tiêu thụ
chậm, khách đặt hàng thưa hẳn. Một số hộ đành phải tháo khung cửi xếp
lại. Các thiếu nữ dệt nét mặt ít tươi hơn.
Ông Hàm Minh Thiện tâm sự đầy vẻ ưu tư: thấy hàng Mỹ Nghiệp bán
chạy, nhiều doanh nghiệp có vốn đã đến mô phỏng, về “thiết kế” trên các
máy dệt tân tiến. Các loại vải này đều được giới thiệu là
hàng thổ cẩm, được trưng bày ở nhiều trung tâm bán hàng lưu niệm của
các khu du lịch lớn! Đáng nói hơn cả là giá các loại hàng này chỉ bằng
1/4 sản phẩm dệt thủ công. Khách du lịch ít quan tâm
vẫn cứ mua về làm quà “lưu niệm”. Làm sao trả lại thổ cẩm giá trị
đích thực, khôi phục làng dệt truyền thống Mỹ Nghiệp? Một cán bộ Sở
thương mại - du lịch địa phương cho biết: chính quyền sẽ cố
gắng thực hiện ý kiến vận động các khách sạn, khu du lịch trưng bày,
giới thiệu thổ cẩm Mỹ Nghiệp thứ thiệt cũng như củng cố các hình thức
hợp tác để nâng cao sức sản xuất của làng.
Tuy nhiên, quan trọng nhất, theo ý kiến của nhiều người, phải có
những cơ quan tâm huyết đứng ra xúc tiến lập một thương hiệu riêng, đăng
ký độc quyền cho thổ cẩm Mỹ Nghiệp cũng như các sản phẩm
truyền thống độc đáo của nhiều làng dân tộc khác. Cũng nên mạnh dạn
đưa các nhãn hiệu độc quyền ra thương trường quốc tế. Thế nhưng ngành
nào, cơ quan nào hoặc tổ chức, cá nhân nào sẽ đứng ra tư
vấn hoặc hỗ trợ những người nông dân vốn chỉ biết chăm chỉ, cần cù
lại rất ít hiểu biết thông tin, thị trường ở một vùng đất cách xa các
trung tâm văn hoá, thông tin.
Bãi biển Ninh Chữ:
Cách Phan Rang 7 km về phía Đông. Bờ biển thoai thoải, nước trong
xanh, bãi cát trắng dài 5 km. Hàng dương xanh mát. Bãi tắm này trước năm
1975 dành riêng cho gia đình tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
vì Ninh Chữ là quê hương ông. Hiện nay, bãi biển Ninh Chữ đang trở
thành trung tâm du lịch trong vùng với sự đầu tư hàng loạt về cơ sở hạ
tầng du lịch của các công ty trong và ngoài nước. Trong
tương lai cụm du lịch Ninh Chữ – Đà Lạt – Cà Ná sẽ phát triển vượt
bậc khi sân bay Quốc tế Cam Ly, khu du lịch Dankia hoàn thành.
Tháp Pôklong Giarai
Trong di sản văn hoá người Chăm hiện nay nổi bật nhất là hệ thống
đền tháp, điêu khắc, tượng thờ, thành quách, bia kí…Hầu hết từ Miền
Trung cho đến Tây Nguyên, nơi nào có người Chăm sinh sống thì
họ đều xây dựng đền tháp để thờ thần. Điều đó cho ta thấy tầm quan
trọng đền tháp đối với người Chăm. Thế nhưng hiện nay, trong tổng số
khoảng 250 di tích đã được người Pháp thống kê, chỉ còn 20
nhóm đền tháp với 40 công trình còn tạm đứng vững.
Theo bia kí cho biết, ngay vào thế kỉ thứ V – VII người Chăm đã xây
dựng đền tháp để thờ thần. Trước đó, tại thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam –
Đà Nẵng) người ta đã tìm được dấu vết một ngôi đền bằng
gỗ thờ thần Siva – Bhadravarman. Tiếp sau đó và kéo dài cho đến thế
kỷ XVII các đền tháp Champa tiếp tục ra đời mang nhiều phong cách khác
nhau như Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Bằng An, Chiên Đàn (Khánh
Hoà), Po Klong Garai, Po Rome (Ninh Thuận), tháp Po Sanư, Po Dam
(Bình Thuận), Tháp Yang Pruang (Tây Nguyên)… Tất cả đền tháp Chăm được
xây dựng để thờ ba vị thần chính: Siva, Vishnu, Brahma. Về
sau tháp Chăm ngoài thờ thần Ấn giáo họ còn thờ các vị vua Chăm như
tháp Po Klong Garai, Po Rome (Ninh Thuận).
Những đền tháp Chăm đều có đặc điểm chung là một cụm kiến trúc bao
gồm một tháp trung tâm hình vuông, mái thôn nhọn “tượng trưng cho ngọn
núi Mêru - Ấn Độ, trung tâm vũ trụ nơi ngự trị của thánh
thần”. Xung quanh tháp chính là những tháp nhỏ nằm theo vị trí 4
hướng tượng trưng cho các lục địa và ngoài cùng là hào rãnh, biểu tượng
của đại dương. Sơ đồ kiến trúc đó được xây dựng theo khái
niệm vũ trụ luận của Ấn Độ.
Tháp còn có một đặc điểm chung là xây bằng gạch, có 4 mặt hình vuông
đối xứng nhau. Mặt trước hướng về phía đông có cửa ra vào còn 3 mặt còn
lại ở 3 hướng (tây, nam, bắc) có ba cửa giả. Tháp Chăm
thường có 3 tầng được cấu trúc như nhau, mỗi tầng càng lên cao càng
thu nhỏ dần và kết thúc bằng một Linga bằng đá trên nóc tháp. Kĩ thuật
xây dựng và chất kết dính tháp Chăm như thế nào đến nay
vẫn còn nhiều bí ẩn chưa giải mã được đối với những nhà nghiên cứu.
Gần một thế kỷ trôi qua, ngày trong những năm đầu thế kỉ XX các nhà
nghiên cứu người Pháp như G. Maspero (1928), J. Clayes, H.
Pamertier (1948), Wawrenersk và Skibinski (1937)… đã đưa ra nhiều
giải thiết, thể nghiệm về chất kết dính của các viên gạch trong kĩ thuật
xây tháp người Chăm.
Các ý kiến của tác giả nêu trên tựu trung lại thành 4 giả thuyết như sau:
- Trong kĩ thuật xây tháp, người Chăm nung gạch toàn khối hoặc nhiều lần để các viên gạch tự kết dính với nhau.
- Sử dụng chất kết dính (chất keo, phụ gia) trong việc xây gạch.
- Mài gạch với mặt tiếp xúc để gạch tự kết dính với nhau.
- Dùng kĩ thuật xếp gạch nung sẵn.
Tất cả những giả thuyết trên, mặc dù hiện nay được hỗ trợ bằng
phương pháp phân tích khoa học thực nghiệm hiện đại, tiên tiến nhưng kết
quả về chất kết dính, về kỹ thuật xây dựng tháp Chăm vẫn
chưa được làm sáng tỏ. Tiếp tục công việc nghiên cứu của các tác giả
đi trước, sau năm 1975 các tác giả Việt Nam như Cao Xuân Phổ, Trần Kỹ
Phương, Ngô Văn Doanh… cũng đã mất khá nhiều công sức
nghiên cứu tháp Chăm nhưng chưa có gì mới hơn. “Hầu hết các giả
thuyết” nghiên cứu sau năm 1975 gần như lặp lại các giả thuyết trước
1975 của các nhà nghiên cứu người Pháp”. Tháp Chăm vẫn đang
còn bí ẩn, chưa được khám phá.
Cùng với kiến trúc, điêu khắc Champa cũng thể hiện được vẻ đa dạng,
độc đáo. Những đề tài điêu khắc Chăm là những tượng thờ Siva, Vishnu,
Brahma. Ngoài những vị thần trên, vật thờ ở tháp Chăm phổ
biến vẫn là cặp Linga-Yoni. Ngoài tượng thờ các vị thần chính, điêu
khắc ở đền tháp Chăm còn trang trí bằng tượng thờ Vũ nữ (apsara), người
cưỡi ngựa đánh cầu; những con vật huyền thoại như
Garuda, Kala, bò thần Nandin. Những cảnh chạm khắc trang trí ở các
bệ thờ, điêu khắc Chăm phần lớn ảnh hưởng văn hoá Ấn Độ. Chẳng hạn bệ
thờ Trà Kiệu chạm khắc 4 cảnh quanh đài thờ kể chuyện
trường ca Ramayana (chủ đề lễ cưới công chúa Sita). Bệ thờ Mỹ Sơn E1
diễn tả cảnh sinh hoạt lễ nghi tôn giáo của đạo sĩ Ấn và những cảnh
trầm tư, giảng đạo múa hát, luyện thuốc chữa bệnh. Điêu
khắc Chăm đã thể hiện nhiều đề tài phong phú, đa dạng. Một số tác
phẩm đã trở thành kiệt tác mà tiêu biểu là tượng Vũ nữ Trà Kiệu (Apsara)
được đánh giá là “đỉnh cao của nghệ thuật tạc tượng
Champa và của cả miền Đông Nam Á”.
Nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc Chăm tuy có những nét ảnh hưởng văn
hoá Ấn Độ, Indonesia, Khơme nhưng họ không tiếp thu, sao chép một cách
nguyên vẹn mà luôn cải biên sáng tạo trên cơ sở văn hoá
bản địa. Người Chăm một thời tôn thờ, đề cao Siva Ấn Độ nhưng Siva
của người Chăm không giống Siva Ấn Độ, Siva Chăm vẫn hướng về nữ tính,
gần gũi với tín ngưỡng thờ mẫu (Inư) của người Chăm và
luôn kết hợp với Linga – Yoni (tín ngưỡng phồn thực). Về sau tục thờ
Siva được gắn với tục thờ Vua - Thần (Mukhalinga). Điều đó thể hiện
được tính bản địa - một cá tính riêng trong tục thờ thần
của người Chăm. Cũng như các mẫu đề điêu khắc, kiến trúc Chăm luôn
dựa vào môtíp của Ấn giáo để rồi biến hoá thành cái riêng mình. Chẳng
hạn tháp Chăm chỉ xây bằng gạch, chứ không xây bằng đá như
tháp Ấn Độ. Các tháp Chăm hướng về hình khối đơn giản, không qui mô
bề thế như các tháp ở Ấn Độ, đền tháp Ăngko (Campuchia), tháp Borobudur
(Indonesia). Tháp Chăm luôn hướng về tiểu phẩm cân
xứng, đẹp mắt, vừa độc đáo vừa có cá tính, kĩ thuật, bí quyết riêng
mà đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn. Đó là thành tựu rực rỡ, là nét bản
sắc riêng biệt, “thể hiện sự sáng tạo, tài ba độc đáo
của những nhà kiến trúc, điêu khắc Chăm thời xa xưa”.
Hiện nay người Chăm ở Ninh Thuận còn tồn tại 3 ngôi tháp, mang 3 phong cách và niên đại khác nhau.
Nằm trên ngọn đồi trầu (cơk hala) thuộc phường Đô Vinh, cách trung
tâm thị xã Phan Rang - Tháp Chàm 9 km về phía Tây Bắc. Tháp Po Klong
Garai là một tổng thể kiến trúc nghệ thuật bao gồm 3 ngôi
tháp: Tháp chính (Kalan Po) cao 20,5m bên trong thờ một tượng vua Po
Klong Garai bằng đá dưới hình thể Mukhalinga (Linga có gắn mặt vua) và
một tượng bò thần Nandin bằng đá đặt ở lối ra vào; tháp
cổng (Kalan tahah libang) cao khoảng 8,56m; tháp lửa (Sang cuh yang
apui) cao 9,31m. Ngoài ra ở phía sau tháp chính còn có một ngôi miếu nhỏ
thờ một phiến đá. Xung quanh tháp được bao bằng một
vòng thành. Tháp được người Chăm xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ XII
đầu thế kỷ XIII để thờ vị vua Poklong Garai (1151-1205) - một vị vua có
công với dân, với nước, được người Chăm suy tôn thành
thần thánh. Tháp Po Klong Garai là một cụm tháp hoàn mỹ, đã đạt đến
đỉnh cao rực rỡ trong nền nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Champa. Tháp
được Bộ Văn hoá xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật
vào năm 1979.
Theo truyền thuyết của dân tộc Chăm, có một cặp vợ chồng nông dân
nhìn thấy một đứa trẻ sơ sinh nằm trên bọt nước, trôi từ thượng nguồn
dòng sông Dinh (chảy qua địa phận huyện Ninh Sơn và qua thị
xã Phan Rang - Tháp Chàm đổ ra bể). Tiếng khóc của đứa trẻ đã làm
động lòng cặp vợ chồng làm rẫy gần đấy và họ đã đem bé về nuôi. Họ đâu
biết, đứa trẻ này được bề trên phái xuống để thử lòng dạ
người trần. Trời làm cho đứa bé bị ghẻ lở đầy người, mà các thầy
thuốc giỏi trong vùng đều không thể chữa khỏi, cốt ý để xem cặp vợ chồng
này đối xử như thế nào với đứa bé. Sau đó, trời cho Rồng
vàng xuống trần, liếm hết những vết ghẻ lở trên người của cậu bé
đang chăn trâu rồi nằm nghỉ trưa ở ngoài đồng. Cậu bé sau đó trở nên
khôi ngô tuấn tú khác thường... Sau khi vị vua trị vì mất,
nghe lời của một vị chiêm tinh, cậu bé (sau này đã trưởng thành)
được phong làm vua, lấy tên hiệu là Poklongarai...
Huyền thoại dân tộc Chăm ở Ninh Thuận còn gắn liền với sự nghiệp xây
dựng tháp và giữ đất của vua Poklon Garai khi người Khmer đến chiếm đất
của người Chăm. Theo truyền thuyết, vua Khmer và vua
Chăm đưa ra một cuộc thi xây tháp, bên nào xây xong tháp trước trong
thời gian đã quy định thì bên ấy được ở lại giữ đất, ngược lại bên nào
xây chậm hơn thì phải rút quân đi. Vua Khmer đốc thúc
quân lính đào đất nung gạch, xây tháp suốt bốn tháng trời mà tháp
vẫn chưa xong. Trong khi đó vua Poklon Garai thì ung dung thong thả. Vào
đêm cuối cùng của thời giao hẹn, Poklong Garai mới cho
quân dựng lên một khung tháp với chất liệu gỗ và trét phên tre lên
rồi phủ thêm vải đỏ bên ngoài. Đến sáng ngày hôm sau quân Tàu từ xa đã
trông thấy tháp của vua Chăm trụ sừng sững trên đồi mà
không hiểu vua Chăm đã có phép lạ gì mà xây tháp nhanh như thế.
Không biết mình đã bị lọt bẫy vì cái kế: "Xây tháp giả bằng gỗ" của
Poklon Garai. Cuối cùng, vua Khmer đành phải chấp nhận rút quân
đi khỏi đất của người Chăm như đã giao kết.
Cây thuốc lá
Năm 1996, nước ta có khoảng 40.000ha trồng thuốc lá các loại, trong
đó có 4.384ha trồng thuốc lá vàng Vriginia là loại nguyên liệu cho các
nhà máy nội địa, có nhu cầu lớn và thị trường xuất khẩu
rộng. So với các cây trồng khác, thuốc lá có ưu thế là thị trường
tiêu thụ cũng như giá cả mặt hàng này rất ổn định, thời gian trồng và
thu hoạch chỉ trong vòng 4 tháng mùa khô, lại là thời điểm
không thích hợp với nhiều loại cây trồng khác. Cây thuốc lá mỗi năm
chỉ trồng được một vụ. Nhiệt độ thích hợp cho cây thuốc lá vàng phát
triển là 25 – 280C, độ ẩm của không khí 65 – 70%, độ pH
5,5 – 6…. Ở phía Nam, các tỉnh có vùng đất thích hợp với cây thuốc
lá là Ninh Thuận, Bình Thuận, Tây Ninh, Bình Định, Phú Yên, Gia Lai, Lâm
Đồng…. Ở phía Bắc là các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang,
Thanh Hóa….
Để sản xuất được 2,04 tỷ bao thuốc lá năm 1995, 17 đơn vị thuộc Hiệp
hội thuốc lá Việt Nam tiêu thụ không ít hơn 35.000 tấn thuốc lá nguyên
liệu. Trong khi đó, nguồn nguyên liệu thuốc lá trồng
trong nước chỉ cung cấp khoảng 25.000 tấn / năm. Hàng năm nước ta
phải bỏ ra hàng chục triệu USD để nhập khẩu 8.000 tấn thuốc lá vàng sấy
để duy trì sự hoạt động của các nhà máy. Công ty nguyên
liệu thuốc lá phía Nam có kế hoạch đưa diện tích trồng cây thuốc lá
vàng ở phía Nam từ 2.760ha năm 1995 lên 10.550ha vào năm 2000, với sản
lượng tương đương 20.260 tấn thuốc lá sấy.
Làng gốm Bàu Trúc
Làng Bầu Trúc cách thị xã Phan Rang (Ninh Thuận) khoảng chừng 10 km,
là nơi sinh sống của đồng bào dân tộc Chăm. Làng có hơn 80 % số hộ gắn
bó với nghề gốm và là một trong những làng cổ xưa nhất
ở nước ta. Ngoài nghề làm ruộng, nghề gốm là nghề tạo ra nguồn thu
nhập chính của địa phương.
Truyền thuyết về nghề gốm Bầu Trúc
Chuyện xưa kể rằng, ngày ấy cách nay gần một thiên niên kỷ, trên
vùng đất đầy nắng và gió cát có một cậu bé mục đồng nghèo khó tên là Pô
Klong Garai ngày ngày đi chăn trâu thuê cho chủ. Nghèo khó
khiến cho cậu mình mẩy đầy ghẻ lác, phong hủi, da dẻ xù xì, xấu xí.
Ngày nọ, một con trâu trong đàn bị lạc. Cậu hớt hải đi tìm. Trên đường,
cậu gặp Pi Kong Chan, hai người kết nghĩa bạn bè. Tìm
trâu không thấy, họ quyết định cùng trốn đi buôn trâu. Đến vùng Bầu
Trúc (Palay Hamu Trok - nay là thị trấn Phước Dân, Ninh Phước, Ninh
Thuận) - vùng đất như chiếc lòng chảo nằm giữa núi và biển
thì Pô Klong Garai quỵ ngã. Pô Klong Chan hối hả đặt bạn nằm nghỉ,
còn mình đi tìm người cứu. Đoàn người cùng Pô Klong Chan quay lại thì
thấy một cảnh tượng vô cùng kỳ lạ: Một con rồng đang liếm
trên thân thể Pô Klong Garai. Rồng liếm đến đâu, ghẻ lác biến mất.
Pô Klong Garai trở thành chàng trai tuấn tú, tinh anh khác người. Pô
Klong Garai lên làm vua, mời Pô Klong Chan làm cận thần,
nhưng Pô Klong Chan từ chối. Ông ở lại vùng đất có phù sa bồi tụ tạo
nên hầm vàng (mỏ đất sét), hầm bạc (dải cát ven sông vào mùa nước cạn
dòng, cát trắng mịn màng). Ông dạy người dân lấy những
báu vật của thiên nhiên là đất sét và cát làm thành lu, khạp, chõ,
nồi, niêu, trã... Dân làng Bầu Trúc tôn ông là sư tổ của nghề gốm và lập
đền thờ cho đến ngày nay. Hàng năm, dân làng dâng vật
cúng cầu xin tổ nghiệp ban cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu,
ngành nghề phát đạt, nhân khang vật thịnh.
Đây được coi là một trong hai làng gốm tối cổ còn lại ở Đông-Nam Á
bởi người thợ gốm làng Bầu Trúc giờ vẫn còn dùng "bàn gốm" là những hòn
kê cố định chứ chưa sử dụng bàn xoay và vẫn dùng chân,
tay để nhào đất.
Người Chăm có thể làm được tất cả các sản phẩm theo nhu cầu của thị
trường. Từ tượng nữ thần Apsara-biểu tượng cho vẻ đẹp thiếu nữ Chăm,
hàng lưu niệm để phục vu khách du lịch đến các vật dụng
thường ngày như nồi đất nấu lẩu, khuôn đổ bánh căn, lu đựng nước,
ấm, nồi, chén... Nghề làm gốm ở đây cũng khá công phu. Để tạo ra các sản
phẩm, người thợ phải thực hiện theo ba công đoạn đó là
chuẩn bị đất, kỹ thuật tạo dáng và nung. Đất sét lấy từ ruộng, đập
thành những cục nhỏ, phơi khô loại bỏ những tạp chất rồi ngâm nước trong
cái hố đất đã đào sẵn. Cát cũng được sàng lọc kỹ và
luợng cát pha tùy thuộc vào hình dáng và kích thước của sản phẩm.
Đầu tiên là dùng chân nhồi đất và cát mịn, cuộn thành từng lọn hình trụ
và phủ kín bằng tấm vải ủ qua đêm. Người thợ còn phải
nhồi và lăn lại đất bằng tay nhiều lần rồi vo tròn thành các cục đặt
lên hòn kê để nặn.
Kỹ thuật tạo gốm gồm có nặn hình: tạo dáng gốm cơ bản ban đầu, sau
đó nối những “lọn đất” vào miệng gốm, dùng “vòng quơ” chải quanh thành
gốm. Chà láng gốm là dùng vải cuộn thấm nước, quấn vào
tay chà láng thân gốm và tạo hình miệng. Trang trí hoa văn trên gốm
là dùng que cây, vỏ sò... để tạo hình răng cưa, khắc vạch, sóng nước,
hoa thực vật; có khi người ta dùng màu thực vật để nhuộm
áo gốm.
Nung gốm là khâu cuối cùng của công đoạn làm gốm. Gốm được nung
ngoài trời và trước khi nung phải phơi khô một ngày. Vật liệu đùng để
nung là củi, phân trâu bò khô, rơm rạ, trấu... Người thợ gốm
Bầu Trúc chỉ đốt lò vào buổi chiều ít gió hoặc gió nhẹ và đốt theo
chiều ngược gió và nung trong khoảng 2-3 giờ đồng hồ.
Sắc đỏ gốm nung như đã ăn vào máu thịt của bà con nơi đây. Với bàn
tay khéo léo, người phụ nữ Chăm đã tạo nên những sản phẩm, độc đáo. Mỗi
đường nét hoa văn đều mang những tâm tư, tình cảm của họ
gửi gắm vào nên không thể lẫn được với gốm khác. Gốm ở đây cũng là
loại đất sét đặc biệt, khi nung rất dẻo và bền. Vì thế, vật dụng gốm của
Bầu Trúc nhất là lu đựng nước thường được người dân
vùng khô và nắng ưa chuộng.
NÚI CÀ ĐÚ – một địa danh Lịch sử
Núi Cà Đú nằm giữa một vùng đồng bằng rộng lớn thuộc huyện Ninh Hải
có độ cao 300 m. Từ trên đỉnh núi du khách có thể thỏa tầm mắt ngắm nhìn
phong cảnh hữu tình của Đầm Nại, vẻ đẹp nên thơ của
bãi biển Ninh Chữ, đồng lúa mênh mông và sự nhộn nhịp của thị xã
Phan Rang – Tháp Chàm.
Càng lên cao núi Cà Đú càng thoáng mát bởi cấu trúc của các hang
động. Từ đây du khách được ngắm nhìn bao quát khu du lịch biển Ninh Chữ,
cánh đồng muối Phương Cựu, Đầm Vua, đồng lúa vàng của
huyện Ninh Hải và xa xa là hòn núi Đá Chồng. Chính vẻ đẹp này đã góp
phần tôn thêm vẻ đẹp của núi Cà Đú.
Với những tảng đá chồng chất lên nhau và nhiều hang lớn, lắm ngõ
ngách nên núi Cà Đú khá hiểm trở. Chính địa thế này từ những năm đầu của
phong trào Cần Vương, nghĩa quân đã chọn núi Cà Đú làm
căn cứ chống pháp. Cũng từ đây, các đội trinh sát, các lực lượng vũ
trang và cán bộ cách mạng suốt những năm tháng kháng chiến chống Mỹ đã
bám trụ gầy dựng cơ sở , tổ chức diệt tề, trừ
gian.
Cùng các chiến khu cách mạng lúc bấy giờ như Bác Ái, Anh Dũng, CK 7,
19, 35, căn cứ núi Cà Đú có một vị trí rất quan trọng nằm giữa vùng bị
tạm chiếm, gần dân nhất và cũng gần địch nhất, nhưng
căn cứ Cà Đú lại bất khả xâm phạm. Mặc dù quân địch tìm mọi cách
tiêu diệt nhưng các trận càn quét, bao vây, phản kích của địch đều bị
quân kháng chiến bám trụ ở núi Cà Đú đánh lui. Bao năm bám
trụ chịu đựng mọi gian khổ, lực lượng kháng chiến ở núi Cà Đú đã giữ
vững niềm tin cách mạng. Núi Cà Đú là một nơi không thể sản xuất ra
lương thực, ngay cả nguồn nước uống cũng cần phải tiếp tế,
nắm được điều này địch đã dùng mọi thủ đoạn quyết triệt tiêu mọi
nguồn tiếp tế của dân cho lực lượng cách mạng. Nhưng với lòng yêu nước
nồng nàn, niềm tin sắc son vào Cách Mạng, nhân dân ở khu
vực xóm Dừa, Dư Khánh… đã không ngại gian khó, hy sinh tìm đủ mọi
cách để tiếp tế lương thực cho du kích. Địch chặn đường bộ, nhân dân lại
vận chuyển bằng đường thuỷ qua Đầm Nại. Chính sự đùm bọc
của nhân dân quanh vùng đã tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ cách mạng
và tạo nên các huyền thoại về các trận đánh “xuất quỷ nhập thần” của lực
lượng kháng chiến. Chứng tích ấy ngày nay vẫn còn lưu
lại trong kí ức của nhân dân tỉnh Ninh Thuận. Chính ý nghĩa lịch sử
cách mạng trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc đúng vào ngày
16/4/1999 – ngày kỷ niệm giải phóng Ninh Thuận, Uỷ ban
nhân dân tỉnh có quyết định công nhận núi Cà Đú là một di tích cách
mạng của tỉnh.
Thuỷ điện Đa Nhim – đèo Ngoạn Mục
Từ thị xã Phan Rang, ngược quốc lộ 27 chừng 50 km bạn sẽ đến một
điểm du lịch hấp dẫn, là sản phẩm của sự kết hợp giữa bàn tay con người
và thiên nhiên hùng vĩ: thuỷ điện Đa Nhim (còn gọi là Sông
Pha) và đèo Ngoạn Mục.
Từ xa, cách cả chục km, bạn có thể nhìn thấy 2 ống thuỷ lực chạy
song song, dài khoảng 2 km, dẫn nước từ trên nhà máy xuống dưới chân
đèo. Đa Nhim được xây dựng cách đây 40 năm và là một trong
những công trình thuỷ điện lớn của Việt Nam.
Đập ngăn nước của Đa Nhim cao 38 m, dài gần 1500m, chứa 165 triệu m3
nước với 4 tổ máy. Đến thăm nơi đây, du khách cần chú ý xin phép trước
hoặc có giấy của cơ quan.
Rời thuỷ điện, xe bắt đầu chinh phục “đèo Ngoạn Mục”, con đèo ngoằn
nghoèo, cao hơn 1000 m so với mực nước biển, dốc “cùi chỏ” liên tục, có
đoạn cua gần như thành một vòng tròn khép kín. Trên
lưng chừng đèo nhìn xuống, bạn sẽ thấy quãng đường xe đã đi qua tựa
như một con rắn khổng lồ ôm lấy dãy núi. Đứng trên đèo Ngoạn Mục, du
khách sẽ nhìn thấy được toàn cảnh thuỷ điện Đa Nhim. Đặc
biệt xe sẽ chui qua hai đường ống thuỷ lực khổng lồ.
Thác Sakai và dịch vụ tắm ngâm nước khoáng nóng
Từ thị xã Phan Rang đi về hướng Tây Bắc khoảng 55 km chúng ta sẽ đến
với Sa Kai ở huyện Ninh Sơn. Thác nằm ngay dưới chân đèo Ngoạn Mục và
công trình nhà máy thủy điện Đa Nhim. Phong cảnh nơi đây
còn hoang dã với những tảng đá lớn phản chiếu màu sắc cầu vồng ẩn
hiện giữa rừng cây xanh bao la cùng thác nước đổ từ trên cao tung bọt
trắng xóa.
Dưới chân đèo Ngoạn Mục có dịch vụ du lịch tắm nước khoáng nóng do
công ty sản xuất nước khoáng Mỹ Á tổ chức. Chúng ta có thể bơi lội, ngâm
mình thư giãn bằng nước ấm tại những hồ nhỏ trang trí
trong vườn cây kín đáo và râm mát. Nước khoáng này được dẫn ra từ
trong rặng núi cao bằng hệ thống ống dài khoảng 6 km. Nước khoáng có tác
dụng phục hồi sức khỏe, thư giãn thần kinh, kích thích
tiêu hóa, chữa bệnh thấp khớp… Bên cạnh đó còn có những ngôi nhà sàn
nhỏ cất bằng cây lá cạnh vườn hoa nhiều sắc hương thích hợp cho người
có nhu cầu ở lại qua đêm.
Nghề Làm Muối
Kỹ thuật truyền thống
Theo diêm dân Mười Hợi ở xã Tri Hải,
nghề làm muối thương phẩm ở địa phương đã có từ rất lâu đời. Hầu hết bà
con sinh sống ở vùng đất gần biển đều biết làm muối,
trước tiên là để sử dụng trong gia đình (muối hầm) và sau đó thì
buôn bán. Sản xuất muối thương phẩm tuy vốn đầu tư ban đầu không nhiều,
nhưng bù lại khá nhọc công. Muốn có được hạt muối trắng,
thật không đơn giản. Ban đầu diêm dân phải chọn thật kỹ lưỡng nền
đất trong lòng ruộng có độ bằng phẳng đều, để sau khi nạo vét tạp chất
và đầm nén, làm cho đất mặt đáy ổn định độ kết dính cao,
bảo vệ chắc chắn cho cả khung và chân ruộng, nhằm tránh trường hợp
khi dẫn nước biển vào ruộng hong nắng. Trong suốt quá trình sản xuất,
nếu độ kết dính mặt đáy không đảm bảo, đất bùn dưới lòng
ruộng bị xì tràn lan thì xem như thua lỗ, vì ruộng không kết tinh
được muối.
Chưa hết, độ mặn của nước biển dẫn vào phải cao, để độ bốc hơi nước
trong thời gian hong nắng nhanh, kết tinh sớm. Mực nước biển ban đầu dẫn
vào ruông thường nằm ở mức dao động từ 15 đến 20cm,
quá trình hong nắng từ 7 đến 15 ngày (tùy thuộc vào thời tiết nắng
hoặc râm mát), để thu hoạch lần đầu, diêm dân phải thường xuyên bám
ruộng để thực hiện hai vấn đề cơ bản là thường xuyên đo kiểm
tra mực nước trong ruộng và châm nước kịp thời khi thấy mực nước sụt
giảm xuống dưới 15cm (đặc biệt khi trời nắng gắt làm cho độ bốc hơi
nước cao). Mặt khác phải thường xuyên dọn vệ sinh bằng
cách dùng vợt vớt các tạp chất bẩn đóng trên bề mặt nước trong
ruộng, để khi thu hoạch, hạt muối không bị đen do dính phải tạp chất.
Thường thì sau khi hong nắng khoảng 1 tuần lễ, diêm dân có thể
cào để thu hoạch lần đầu và bình quân 1 tháng có thể thu hoạch từ
hai đến ba lần. Nếu thời tiết thuận lợi, không ảnh hưởng mưa bão, thì
muối thương phẩm sẽ sản xuất liên tục trong năm, năng suất
khá.
Khu du lịch Krông Pa
Vị trí
Khu du lịch Krông Pa toạ lạc trên Quốc lộ 27, thị trấn Tân Sơn,
huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận. Đây là khu du lịch mới được đưa vào
khai thác.
Truyền thuyết
Truyền thuyết kể rằng: Tộc người Raglai sống dọc theo chân núi Hòn
Bà thường hay bị bệnh, nhất là các bệnh ngoài da, thấp khớp... Khi phát
hiện ra nguồn nước nóng được phun ra từ lòng đất, tạo
thành dòng chảy, những người Raglai cho đó là sự ban phước của trời
đất và họ cùng nhau ra tắm ở nguồn nước nóng này. Không ngờ trong vòng
một tuần trăng, dòng tộc Raglai ở đây đã hết bệnh tật và
khỏe mạnh khác thường.
Dịch vụ
Đến khu du lịch Krông Pa, du khách có thể ngâm mình hàng giờ trong
những hồ chứa nước khoáng nóng nguyên chất, nhiệt độ chừng 400C. Ngâm
mình trong nước khoáng nóng có tác dụng tốt đối với các
loại bệnh như đau khớp, thần kinh ngoại biên, bệnh đái tháo đường...
Tại đây có chừng 30 hồ ngâm nước khoáng nóng và bùn khoáng gia đình
được thiết kế gọn gàng, sạch đẹp. Bùn khoáng chứa nhiều vi
chất, khi thẩm thấu qua da, các vi chất trong bùn sẽ loại bỏ các
bệnh về da, nâng cao sức đề kháng của hệ tuần hoàn, tiêu hóa, giúp con
người quên hết ưu phiền. Ở khu du lịch Krông Pa, còn có nhà
hàng đặc sản với những món ăn lạ sẽ phục vụ quý khách ngon miệng với
giá miền quê. Dù thời tiết nắng nóng hay se lạnh nhưng khi ngâm nước
khoáng nóng, du khách sẽ có một cảm giác hết sức thú vị
mỗi khi đến với khu du lịch Krông Pa.
Vào những ngày đầu xuân rồi mà gió vẫn không ngưng thổi trên những
giàn nho, thanh long. Bầy cừu, bầy dê nhởn nhơ trên vùng đồi cỏ. Có khi
người ta bắt gặp từng bầy lang thang trên đường
nhựa.
Không khí có ấm lên một chút nhưng gió vẫn mạnh mẽ ào ạt như muốn
níu kéo chút lạnh của những ngày cuối đông còn lại. Mặc gió gào, cái
nắng ở đây thì vẫn ngang tàng hanh hao trên những gò đồi
tháp cổ. Tháp Pôklong Giarai vẫn mặc nhiên đứng cùng nắng hanh, gió
gào từ thế kỷ 13 đến giờ.
Hướng dẫn du lịch Phan Rang
Sơ lược
Thành phố Phan Rang-Tháp Chàm (thường được gọi tắt là Phan Rang) là tỉnh lỵ của Ninh Thuận.
Phan Rang cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km, cách Đà Lạt 110 km, cách Nha Trang 105 km và cách Hà Nội 1388 km
|
Click this bar to view the full image.
|
Sân bay chính của thành phố là sân bay
Thành Sơn. Đây từng là căn cứ của Không quân Hoa Kỳ, nay trở thành sân
bay quân sự của Việt Nam.Vùng đất này từng là kinh đô
Panduranga của Vương quốc Champa cổ.
Thị xã Phan Rang được thành lập theo đạo dụ của Khải Định ban hành ngày 4 tháng 8 năm 1917.
Trước năm 1976, Phan Rang là tỉnh lỵ tỉnh Ninh Thuận. Từ 1976 đến
1991, khi tỉnh Ninh Thuận hợp nhất với tỉnh Bình Thuận (kể cả tỉnh Bình
Tuy của Việt Nam Cộng hòa) thành tỉnh Thuận Hải thì Phan
Rang không còn là tỉnh lỵ tỉnh Ninh Thuận, mà thuộc tỉnh Thuận Hải.
Ngày 27 tháng 4 năm 1977 thị xã Phan Rang bị chia hai và hạ cấp
xuống thành thị trấn Phan Rang, huyện lỵ huyện Ninh Hải, và thị trấn
Tháp Chàm, huyện lỵ huyện An Sơn. Thị trấn Phan Rang là địa
bàn 6 phường Mỹ Hương, Tấn Tài, Kim Định, Thạnh Sơn, Phủ Hà, Đạo
Long của thị xã cũ, còn thị trấn Tháp Chàm là địa bàn 3 phường Đô Vinh,
Bảo An và Phước Mỹ của thị xã cũ.
Thị xã Phan Rang được tái lập với tên mới là thị xã Phan Rang-Tháp
Chàm, theo Quyết định số 45/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 1-9-1981,
đồng thời với việc tái lập ba huyện là Ninh Sơn, Ninh Hải
và Ninh Phước trên cơ sở 2 huyện An Sơn và Ninh Hải. Lúc đó thị xã
Phan Rang-Tháp Chàm gồm 9 phường: Bảo An, Đô Vinh, Phước Mỹ, Phủ Hà,
Thanh Sơn, Mỹ Hương, Kinh Dinh, Đạo Long, Tấn Tài, và 3 xã:
Văn Hải, Khánh Hải và Thành Hải.
Khi tỉnh Ninh Thuận được tái lập (1992), thị xã Phan Rang hợp nhất
cùng với Tháp Chàm thành thị xã Phan Rang-Tháp Chàm, đồng thời trở thành
tỉnh lỵ tỉnh Ninh Thuận.
Đầu tháng 2 năm 2007, thị xã Phan Rang-Tháp Chàm trở thành thành phố theo Nghị định của Chính phủ
Đi đâu, chơi gì?
Tỉnh Ninh Thuận còn nhiều di tích kiến trúc cổ của người Chăm là các
tháp, các làng nghề truyền thống. Hiện nay, tỉnh còn ba tháp cổ là:
tháp Pôklông Garai, tháp Hòa Lai, tháp Pôrômê được Bộ Văn
hóa xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia, nơi đây vẫn là
điều bí ẩn đối với nến kiến trúc đương đại.
Tháp PôKlông Garai
Di tích tháp PôKlông Garai được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XIII
đầu thế kỷ XIV, nằm trên đồi Trầu thuộc phường Đô Vinh, cách trung tâm
thị xã Phan Rang - Tháp Chàm 9 km về hướng tây bắc. Đây
là một công trình độc đáo, được công nhận là di tích kiến trúc nghệ
thuật và điêu khắc Chăm.
|
Click this bar to view the full image.
|
Tháp PôKlông Garai gồm nhiều công trình
lớn nhỏ khác nhau, nhưng hiện nay còn lại ba ngôi tháp xây bằng gạch
Chăm. Đó là tháp Cổng (cao 8,56m), tháp Lửa (cao 9,31m)
và tháp Chính- tháp thờ vua PôKlông Garai (cao 21,59m, mỗi cạnh rộng
hơn 10m). Bố cục và cấu trúc của mỗi tháp là cả một công trình nghệ
thuật kiến trúc độc đáo. Mỗi cạnh, mỗi tầng và mỗi mặt của
từng tháp được chạm khắc trang trí bằng các hoạ tiết gốm, đá với đủ
loại hình người, hình đuôi rồng, hình lá, hình bò thần. Tất cả công
trình chạm trổ, điêu khắc đều phản ánh đầy đủ ý nghĩa về
nghệ thuật và tôn giáo của người Chăm.Tháp Hòa Lai
Cụm tháp Hòa Lai còn có tên là Ba Tháp, nằm ven quốc lộ 1A, cách
Phan Rang 14km về phía bắc, được xây dựng từ đầu thế kỷ thứ IX. Cụm tháp
được các nhà nghiên cứu phương Tây đánh giá là kiến trúc
tháp cổ và đẹp nhất của dân tộc Champa.
|
Click this bar to view the full image.
|
Đáng tiếc là ngày nay tháp chính đã bị
sụp đổ, chỉ còn lại tháp Bắc và tháp Nam, nhưng cũng trong tình trạng
hoang tàn. Một thân tháp hình khối lập phương khỏe khoắn,
nhô lên từ một phần bệ vuông và đỡ cả hệ thống các tầng tháp nhỏ
dần. Các tháp còn lưu lại những hoa văn được điêu khắc rất tỉ mỉ, tinh
xảo và tuyệt đẹp trên vòm cửa, trụ ốp, diềm
mái...Tháp Pôrômê
Được coi là phiên bản của tháp PôKlông Garai. Có thể thấy sự thừa
hưởng có tính sáng tạo rất rõ nét ở công trình nghệ thuật kiến trúc này.
Trong đó, Linga tám tay với khuôn mặt của vua thần hóa
Pôrômê là một ví dụ. Hình bà Thu Chí (bà Trinh Nữ), vợ của vua ở
miếu thờ với bộ ngực tròn, đầy đặn, nở nang và đôi mắt vô cùng sống động
của một cô gái Chăm cũng nói lên điều đó.
Tháp Pôrômê
Được coi là phiên bản của tháp Pôklông
Garai. Có thể thấy sự thừa hưởng có tính sáng tạo rất rõ nét ở công
trình nghệ thuật kiến trúc này. Trong đó, Linga tám tay với
khuôn mặt của vua thần hóa Pôrômê là một ví dụ. Hình bà Thu Chí (bà
Trinh Nữ), vợ của vua ở miếu thờ với bộ ngực tròn, đầy đặn, nở nang và
đôi mắt vô cùng sống động của một cô gái Chăm cũng nói
lên điều đó.
Tháp Hòa Lai
Cụm tháp Hòa Lai còn có tên là Ba Tháp,
nằm ven quốc lộ 1A, cách thành phố Phan Rang - Tháp Chàm 14 km về phía
Bắc, được xây dựng từ đầu thế kỷ thứ IX. Cụm tháp được
các nhà nghiên cứu phương Tây đánh giá là kiến trúc tháp cổ và đẹp
nhất của dân tộc Chămpa.
Đáng tiếc là ngày nay tháp chính đã bị sụp đổ, chỉ còn lại tháp Bắc
và tháp Nam, nhưng cũng trong tình trạng hoang tàn. Một thân tháp hình
khối lập phương khỏe khoắn, nhô lên từ một phần bệ vuông
và đỡ cả hệ thống các tầng tháp nhỏ dần. Các tháp còn lưu lại những
hoa văn được điêu khắc rất tỉ mỉ, tinh xảo và tuyệt đẹp trên vòm cửa,
trụ ốp, diềm mái...
Tháp Pôklông Garai
Di tích tháp Pôklông Garai được xây
dựng vào khoảng cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, nằm trên đồi Trầu thuộc
phường Đô Vinh, cách trung tâm thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm 9 km về hướng Tây Bắc. Đây là một công trình độc đáo, được công
nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật và điêu khắc Chăm.
Tháp Pôklông Garai gồm nhiều công trình lớn nhỏ khác nhau, nhưng
hiện nay còn lại ba ngôi tháp xây bằng gạch Chăm. Đó là tháp Cổng (cao
8,56 mét), tháp Lửa (cao 9,31 mét) và tháp Chính - tháp thờ
vua Pôklông Garai (cao 21,59 mét, mỗi cạnh rộng hơn 10 mét). Bố cục
và cấu trúc của mỗi tháp là cả một công trình nghệ thuật kiến trúc độc
đáo. Mỗi cạnh, mỗi tầng và mỗi mặt của từng tháp được
chạm khắc trang trí bằng các hoạ tiết gốm, đá với đủ loại hình
người, hình đuôi rồng, hình lá, hình bò thần. Tất cả công trình chạm
trổ, điêu khắc đều phản ánh đầy đủ ý nghĩa về nghệ thuật và tôn
giáo của người Chăm.
Đình Văn Sơn
Được xây dựng năm 1829 tại làng Văn
Sơn, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. Đình được xây dựng trên một khu
đat rộng, cửa hướng về phía Nam, trước mặt có hồ sen hình
bán nguyệt, xa dần hướng sau lưng là ngọn núi Cà Đú, hai bên là đồng
ruộng. Vị trí này đã tạo thêm cho ngôi đình dáng vẻ uy nghi và một lối
kiến trúc độc đáo. Toàn bộ kiến trúc đình Văn Sơn liên
hoàn với nhau tạo thành một công trình khép kín. Chính điều này, khi
bước chân vào đình, du khách cảm nhận được không khí trang nghiêm, đầm
ấm, gần gũi. Hiện đình Văn Sơn còn lưu giữ ly ngà, chén
ngọc và bảy sắc phong của các đời vua Tự Đức, Đồng Khánh, Khải Định,
Duy Tân.
Đối với người dân thôn Văn Sơn, ngôi đình không chỉ là một công
trình kiến trúc nghệ thuật đã đứng vững trước sự tàn phá khốc liệt của
chiến tranh và thời gian mà còn là nơi gắn liền với đời sống
tâm linh, nơi tổ chức các sinh hoạt văn hoá của làng quê. Ngày hội
đình làng hằng năm được tổ chức vào mồng 10 tháng 2 âm lịch.
Đình Vạn Phước
Được xây dựng năm 1848, tại thôn Vạn
Phước, xã Phước Thuận, huyện Ninh Phước. Có thể nói lịch sử đình Vạn
Phước gắn liền với quá trình thành lập làng. Đối với người
dân ở đây, ngôi đình không chỉ là không gian thu hẹp của làng quê,
nơi diễn ra các cuộc họp quan trọng, mà còn là trung tâm sinh hoạt văn
hóa. Hằng năm, cứ đến ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch, người
dân Vạn Phước khắp nơi về dự hội làng để tưởng nhớ các bậc tiền nhân
đã có công khai hoang mở đất.
Đình làng Vạn Phước còn là một công trình kiến trúc điêu khắc có giá
trị cao so với các đình làng khác trong tỉnh. Những nét chạm khắc tinh
xão với đề tài tứ linh: long, lân, qui, phụng trên các
điện mái, kèo cột, rường xà, trang thờ... Đã thể hiện được tài năng
của nhiều thế hệ. Cách trang trí của đình làng Vạn Phước mang đậm nét
văn hoá đời Nguyễn. Những ghế án, sắc phong của các đời
vua Tự Đức, Khải Định vẫn còn được lưu giữ đến ngày hôm nay. Dưới
thời Pháp thuộc, đình Vạn Phước gắn liền với những hoạt động đấu tranh
cách mạng của Đảng và nhân dân Ninh Thuận.
Năm 1999, Bộ Văn hóa - Thông tin đã có quyết định công nhận đình Vạn Phước là di tích lịch sử văn hoá quốc gia.
Căn cứ CK 7
Nằm về hướng Tây Nam, cách thành phố
Phan Rang -Tháp Chàm 25 km thuộc địa bàn xã Nhị Hà, huyện Ninh Phước.
Căn cứ được hình thành dựa theo con suối bắt nguồn từ hòn
Thông chảy giữa hai sườn núi đến chân hòn Nhọn đổ thành thác xuống
hồ Đá Mán. Con suối này có nước chảy quanh năm, vị thế rất hiểm trở,
rừng rậm kín đáo, có nhiều hang động rất thuận lợi cho việc
lập căn cứ che dấu lực lượng, vừa phòng thủ vừa tiến công. Lúc đầu,
căn cứ được lập tại hồ Đá Mán nhưng do không an toàn nên lực lượng lùi
dần về phía sâu trong lòng hồ. Qua bảy lần di chuyển,
lực lượng dừng luôn ở đó và đặt cho căn cứ là CK7. Vùng căn cứ CK7
hiện nay đã xây dựng hồ chứa nước, là điểm du lịch sinh thái rất hấp
dẫn.
Di tích lịch sử CK 19
Nằm dưới chân núi Chúa thuộc xã Vĩnh
Hải, huyện Ninh Hải là nơi in đậm dấu tích lịch sử của một thời hào hùng
chống xâm lược. Căn cứ này lấy tên là CK19 vì được thành
lập vào ngày 19 tháng 8 năm 1946. Căn cứ CK19 tồn tại trong thời kỳ
chống Pháp, đến chống Mỹ và cho đến ngày hoàn toàn giải phóng. Đây là
một trong những nơi ẩn náu của Bộ chỉ huy quân sự để chỉ
đạo chiến tranh, hiện nay vẫn còn những di tích để lại như hầm hào,
bếp Hoàng Cầm. Bờ biển ở đây là nơi tập kết vũ khí và quân trang từ miền
Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam. Đại đội trưởng
phụ trách CK19 đầu tiên là Thái Chu Lương. Sau khi hy sinh, đại đội
được vinh dự mang tên anh đại đội Thái Chu Lương. Chính quyền và nhân
dân địa phương mong muốn được khôi phục và tôn tạo khu di
tích này để giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ mai sau.
Bẫy đá Pinăng Tắc
Nằm cách thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm khoảng 70 km về hướng Tây Bắc, thuộc xã Phước Bình, huyện Bác Ái
(cách Ủy ban Nhân dân huyện Ninh Sơn khoảng 40 km), di tích
lịch sử bẫy đá Pinăng Tắc được dựng trên đỉnh đèo Gia Trúc. Địa thế ở
đây vô cùng hiểm trở, một bên là núi cao chót vot, xanh thẳm rừng đại
ngàn; một bên là vực sâu hun hút. Lợi dụng địa thế tự
nhiên, Pinăng Tắc chỉ huy dân công chặt cây rồi lấy dây rừng bện
thành những tấm sàn gỗ rộng lớn chất đầy đá núi neo cứng. Khi chặt dứt
dây treo bẫy thì đá núi đổ lăn xuống vực tạo thành thế trận
thiên la địa võng. Bẫy đá được xây dựng vào cuối năm 1959 và đầu năm
1960, đây là nơi ghi lại trận địa phục kích địch bằng bẫy đá trưa ngày 8
tháng 4 năm 1961 của du kích Rắglay, dưới sự chỉ huy
của Pinăng Tắc (được phong danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang vào
năm 1965) - con chim đầu đàn của dân tộc Rắglay - để bảo vệ núi rừng,
buôn rẫy. Ngày nay, bẫy đá trở thành biểu tượng gắn liền
với quê hương, núi rừng dân tộc Rắglay.
Núi Cà Đú
Núi Cà Đú là một địa danh lịch sử nằm
giữa vùng đồng bằng rộng lớn thuộc huyện Ninh Hải có độ cao 300 mét.
Càng lên cao núi Cà Đú càng thoáng mát bởi cấu trúc của các
hang động. Từ đây có thể nhìn bao quát khu du lịch biển Ninh Chữ,
cánh đồng muối Phương Cựu, đầm Vua, đồng lúa vàng của huyện Ninh Hải và
xa xa là hòn núi Đá Chồng. Với những tảng đá chồng chất
lên nhau và nhiều hang động, ngõ ngách nên núi Cà Đú khá hiểm trở.
Chính nhờ địa thế này, từ những ngày đầu của phong trào Cần Vương,
nghĩa quân đã chọn núi Cà Đú làm căn cứ chống Pháp. Cũng từ đây, các đội
trinh sát, các đơn vị vũ trang và cán bộ cách mạng suốt
những năm tháng kháng chiến chống Mỹ đã bám trụ gầy dựng cơ sở, tổ
chức trừ gian, diệt tề.
Chính nơi đây đã tạo nên những trận đánh huyềnthoại xuất quỉ nhập
thần của lực lượng kháng chiến. Chứng tích ấy, sau hơn một phần tư thế
kỷ vẫn còn lưu lại trong ký ức của nhân dân Ninh Thuận.
Chính ý nghĩa lịch sử cách mạng trong suốt hai cuộc kháng chiến
giành độc lập và giải phóng dân tộc, ngày 16 tháng 4 năm 1999 là ngày kỷ
niệm giải phóng Ninh Thuận, Ủy ban Nhân dân tỉnh có quyết
định công nhận núi Cà Đú là di tích lịch sử cách mạng của tỉnh.
Hải đăng Mũi Dinh
Từ năm 1904, người Pháp đã cho xây trên
sườn một ngọn núi cao 300 mét ở mũi Dinh tỉnh Ninh Thuận một ngọn hải
đăng. Từ đó đến nay ngọn hải đăng đêm nào cũng đỏ đèn,
ánh sáng từ ngọn hải đăng này nhấp nháy liên tục để báo hiệu cho tàu
thuyền một vị trí chuyển hướng quan trọng trên đường ra Bắc vào Nam.
Đến mũi Dinh du khách được thiên nhiên chiêu đãi đầu tiên
là gió, vì ở vị trí nào cũng có thể hứng cả gió Tây Nam lẫn gió Đông
Bắc nên mùa nào, hướng nào khi gió tràn qua đây cũng lồng lên đến cấp 7
mặc dù ở chân núi chỉ có cấp 4. Gió rít qua các khe
cửa hú lên những tràng dài, gợi lên những cảm giác thật quái lạ, ít
nơi nào có.
Suốt đêm, ngọn hải đăng lặng lẽ quét những luồng ánh sáng dài trên
mặt biển. Khi đứng ở chân ngọn hải đăng ta mới thấy được những luồng
sáng này, còn khi ở xa, trong vòng bán kính 60 km, các tàu
đi biển sẽ thấy ngọn đèn nhấp nháy như một vì sao theo chu kỳ 20
giây một lần. Ngọn đèn quét vào không gian mênh mông những vệt sáng mạnh
mẽ. Trên mặt biển tối như bưng, ngọn đèn nhấp nháy liên
tục, làm tiêu lộ cho những chuyến tàu đi biển. Hải đăng mũi Dinh là
một trong ba ngọn hải đăng nằm trên đường hàng hải quốc tế.
Hòn Lao Câu
Nằm cách Cà Ná chừng 10 km về phía Nam.
Ốc đảo nguyên sơ này có nhiều loài chim biển và hải sản quý, đặc biệt
là loại ốc nhảy có hương vị đặc biệt thơm ngon. Hằng năm
ở đảo, ngư dân còn tổ chức lễ hội cầu ngư, thu hút hàng trăm người
từ đất liền ra tham dự.
Hòn Đỏ
Bãi san hô Hòn Đỏ rộng hàng ngàn
kilômét vuông nằm ở thôn Mỹ Hiệp, xa Thanh Hải, huyện Ninh Hải. Đây là
vùng biển có rạn san hô đẹp và đa dạng nhất Việt Nam. Tại đây
có 307 loài san hô cứng tạo rạn với nhiều hình dáng, màu sắc phong
phú nên có sức hấp dẫn không chỉ đối với các nhà hải dương học mà còn
thu hút du khách thường xuyên đến thưởng ngoạn. Những rạn
san hô phát triển rất nhanh tạo thành những con đê chắn sóng tự
nhiên bền vững và những bãi cát đẹp đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch
trong tương lai. Năm 2003, vùng biển Ninh Hải vinh dự được
chọn là địa phương duy nhất trong cả nước làm thí điểm trình diễn
thực hiện dự án bảo tồn san hô dựa vào cộng đồng.
Vịnh Vĩnh Hy
Cách thành phố Phan Rang - Tháp Chàm 42
km về hướng Đông Bắc, vịnh Vĩnh Hy nằm giữa làng Vĩnh Hy, xã Vĩnh Hải,
huyện Ninh Hải. Đây là nơi còn giữ lại nhiều nét hoang
sơ do thiên nhiên hào phóng ban tặng với một quần thể cảnh quan xinh
đẹp, hùng vĩ bao gồm những bãi cát trắng bao quanh, những dãy núi đá
cao chót vót và những dòng suối róc rách len lỏi giữa
rừng cây xanh bạt ngàn. Đây là vùng biển khúc khuỷu nhất Việt Nam
với những rạn đá san hô muôn hình vạn trạng, những hang động bí ẩn dụ dỗ
các du khách ưa thích các cuộc thám hiểm kỳ thú. Đến đây
du khách có thể tắm biển, tắm suối, câu cá, hít thở không khí trong
lành, khám phá những hang động, rừng cây; chiêm ngưỡng vẻ đẹp của núi đá
hoặc tham quan cảnh đẹp của vịnh Vĩnh Hy bằng tàu
thuyền, ca nô, leo núi, cắm trại, thăm chiến khu xưa CK19, xem san
hô bằng tàu đáy kính hoặc chiêm ngưỡng rùa biển đẻ trứng vào những đêm
trăng sáng.
Suối nước nóng Tân Sơn
Từ thành phố Phan Rang - Tháp Chàm vượt
qua 37 km theo quốc lộ 27 là tới suối nước nóng Tân Sơn, thuộc huyện
Ninh Sơn. Đây là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm
được “nối nguồn” từ suối nước nóng Dục Mỹ cách đó khoảng 4 km trên
chân núi Hòn Bà, được ông Blonel (người Pháp) phát hiện vào năm 1923.
Nhiệt độ tại nguồn cua suối nước nóng khoảng 30oC, các
khoáng chất ở đây có tác dụng chữa trị các bệnh thấp khớp, bệnh
ngoài da, kích thích tiêu hóa, tăng lực, lợi tiểu. Ghé thăm khu du lịch
Tân Mỹ Á, du khách sẽ được ngâm mình trong lòng hồ đầy ắp
nước trong xanh, ấm áp với nhiệt độ lý tưởng từ 35oC đến 40oC được
dẫn từ dãy núi Krông Pha về. Sau một thời gian thư gian với làn nước ấm
áp, gột bỏ mọi bụi trần, mệt nhọc trong chặng đường du
ngoạn, du khách sẽ được thưởng thức những đặc sản của quê hương Ninh
Sơn, Vĩnh Hy, với những món ăn mộc mạc, đơn sơ nhưng đậm đà hương vị
vùng đất Ninh Thuận, được đội ngũ nhân viên tận tâm và
mến khách của các nhà hàng phục vụ chu đáo.
Suối Thương
Từ thành phố Phan Rang - Tháp Chàm,
ngược theo quốc lộ 27 lên khoảng 33 km, du khách sẽ đến thôn La Vang
thuộc xã Quảng Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận. Trước
hết, mời du khách vào thăm trang trại hoa hồng gần kề suối Thương
ngào ngạt trăm hoa đua nở: hoa hồng, hoa păng xê, mào gà, cúc trắng...
Với diện tích 5 hecta rừng, trang trại được thiết kế vừa theo hình
thức các trang ấp ngày trước, vừa đưa phong cách hiện đại vào từng cảnh
quan. Một dãy hồ cá bao bọc chung quanh từ cổng ngoài
được kiến tạo công phu vừa đem lại vẻ mỹ quan, vừa lưu giữ sắc thái
thiên nhiên mời gọi du khách đến thưởng lãm, thư giãn vừa câu cá giải
trí và nâng chén nhâm nhi.
Tới đây, du khách còn bắt gặp nhiều loài thú hoang dã, xinh đẹp,
thuần tính như: chim đại bàng, gấu, khỉ Phi Châu...được nuôi dưỡng trong
một môi trường thích hợp với không gian thoáng đãng, hội
đủ cỏ cây, nguồn nước tạo bầu không khí dễ chịu để phục vụ cho những
du khách có nhu cầu được tận mắt ngắm nhìn cũng như cơ hội tìm hiểu về
thế giới động vật hoang dã.
Đi thêm 3 km nữa, bạn sẽ không khỏi ngỡ ngàng và có cảm giác tâm hồn
trở nên mát dịu vì trước mắt bạn xuất hiện một suối nước trong lành
trắng xoá tuôn đổ: suối Thương được tạo thành bởi hai dòng
nước lạnh và ấm. Dòng lạnh do sông Ông của thủy điện Đa Nhim đổ vào
quanh năm vẩn đục, ngược lại dòng ấm rất trong trẻo do sông Cái tạo nên.
Suối Đông Nha
Là một dòng suối đẹp nằm trên địa bàn
huyện Ninh Hải. Lòng Suối Đông Nha có nhiều thác chảy qua trên nền đá
hoa cương, cảnh quan hấp dẫn khách du lịch. Nơi đây trong
thời kỳ Pháp thuộc từng là nơi nghỉ mát của du khách. Trên núi Chúa,
những vết tích nhà nghỉ được xây dựng trong thời kỳ này đã minh chứng
điều đó. Mặc dù nằm trong vùng khô hạn nắng nóng nhưng
do ở độ cao hơn 700 mét, lại được che phủ bởi thảm rừng đã tạo cho
môi trường nơi đây thật mát mẻ. Địa điểm này đặc biệt thích hợp cho các
nhà nghiên cứu khoa học và khách du lịch sinh
thái.
Suối Lồ Ồ
Nằm ở khu vực Vịnh Vĩnh Hy, xã Vĩnh
Hải, huyện Ninh Hải. Suối Lồ Ồ là một bức tranh thiên nhiên sơn thủy hữu
tình, được hình thành bởi những thác nước có cảnh quan
đẹp với chiều cao không quá 5 mét, nền đá hoa cương được dòng nước
tự nhiên gọt dũa, mài nhẵn tạo nên những phiến đá to bằng phẳng, là nơi
dừng chân lý tưởng của du khách, rồi những dãy núi, rừng
cây và cả một bầu không khí trong lành, xanh, mát...làm cho sối Lồ Ồ
ngày càng hấp dẫn du khách gần xa. Nơi đây rất phù hợp cho lọai hình du
lịch cuối tuần.
Suối Tiên (suối Ba Hồ)
Từ thành phố Phan Rang - Tháp Chàm đi
trên quốc lộ 1A khoảng 35 km về hướng Bắc, sau đó rẽ phải khoảng 1 km là
tới suối Tiên thuộc xã Công Hải, huyện Ninh Hải. Dòng
suối Tiên vắt mình từ trên cao, len lỏi qua nhiều tầng nấc trong các
khe đá chảy xuống trông như một dải lụa bạc khổng lồ; có đoạn nước chảy
róc rách, dòng nước trong vắt, mát lạnh đến sảng
khoái. Suối Tiên được tạo nên bởi một quần thể thiên nhiên hài hòa,
nơi đây núi rừng trùng điệp được trang điểm bởi sắc màu các loài hoa
rừng, không khí trong lành, mát mẻ, gắn với nhiều huyền
thoại cổ tích xưa được lưu truyền cho đến ngày nay.
Suối còn mang tên Ba Hồ vì trên hành trình của mình có ba lần suối
mở lòng ra ngay trên lưng núi, tạo liên tiếp ba cái hồ lớn giữa sườn
núi, kiến tạo những cảnh quan thiên nhiên kỳ vĩ. Mỗi hồ
mang mỗi vẻ đẹp khác nhau nên từ xưa con suối đã được du khách gần
xa biết đến với những huyền thoại ly kỳ, hấp dẫn. Đây là địa điểm thích
hợp với loại hình du lịch khám phá mạo hiểm rất lý thú
với những rừng lau lách bạt ngàn, vách đá cheo leo dựng đứng như
thách thức những ai muốn đi đến tận cùng để thưởng thức cảnh đẹp con
suối.
Đèo Ngoạn Mục
Với chiều dài 21 km và độ dốc trung
bình 90, đây cũng là đèo có độ dốc lớn nhất ở các tỉnh phía Nam. Đứng
trên đỉnh, du khách sẽ thấy đèo Ngoạn Mục là bức tranh thiên
nhiên hùng vĩ thấm đẫm chất thơ và khoáng đạt, tràn đầy sức sống.
Nhìn lên phía trước, ngược về phía sau, thấp thoáng qua những rặng thông
xanh mướt là đường đèo ngoằn ngoèo như con rắn khổng lồ
hiền lành uốn mình quanh vách núi.
Những chiếc ô tô giờ đây trở nên nhỏ bé, chậm chạp di chuyển lên
xuống như những chú rùa. Màu xanh của rừng đôi chỗ bị cắt ngang bởi
những thác suối trắng lóa như những chiếc nơ xinh xắn buộc
ngang áng tóc rừng thẳm trùng điệp, ngút ngàn trải dài vô tận. Xa
xa, đồng bằng Phan Rang được dòng sông Cái lượn quanh tạo nên vẻ đẹp
thanh bình.
Những ngày đẹp trời, du khách có thể thấy dãi đường viền cát trắng
đang được những con sóng lăn tăn vỗ về cùng cảnh đẹp như tranh vẽ, vừa
có nét hoang sơ hùng vĩ, vừa thanh thoát lãng mạn, khiến
lòng du khách không khỏi lâng lâng, ngất ngây, choáng ngợp.
Đầm Nại
Là một trong 12 đầm phá ven biển nước
ta, mang đặc thù đầm nhiệt đới khô hạn. Đầm Nại là vùng nước tự nhiên
nằm sâu trong đất liền, có cửa thông ra biển, diện tích
khoảng 1.200 hecta; trong đó diện tích vùng triều 800 hecta, liên
thông với biển qua lạch Ninh Chữ dài 2 km, rộng từ 150 mét đến 300 mét,
nhận nước ngọt từ các kênh mương hệ thống thủy lợi với
diện tích lưu lượng 556 km2. Nguồn lợi thủy sản tự nhiên rất phong
phú: thực vật nổi 125 loài, động vật nổi 22 loài, rong biển 40 loài,
động vật đáy 61 loài, cá biển 42 loài và có khoảng 300
hecta rừng ngập mặn. Chung quanh đầm Nại có thể phát triển đa ngành
nghề như: công nghiệp, dịch vụ, khai thác nuôi trồng thủy sản. Chính vì
vậy từ rất lâu, đầm Nại đã có một vị trí vô cùng quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Ninh Thuận.
Hồ Tân Giang
Mới được xây dựng ở xã Phước Hà, huyện
Ninh Phước có dung tích 13,6 triệu m3, diện tích mặt hồ 150 hecta, là
công trình thủy lợi đầu tiên của Ninh Thuận. Đồng thời,
đây còn là công trình thủy lợi bê tông lớn nhất của Việt Nam, mặt
bằng tổng quan thiên nhiên nhìn từ xa trông đẹp thơ mộng và cuốn hút.
Cảnh quan không gian xung quanh khu vực hồ có thể đầu tư
phát triển các loại hình dịch vụ du lịch phục vụ khách tham quan.
Hồ Treo
Hồ Treo nằm trong khu bảo tồn thiên
nhiên núi Chúa, cách không xa căn cứ CK19. Mặt hồ có đường kính từ 70
mét đến 80 mét, quanh năm có nước trong xanh và nhiều động,
thực vật sinh sống. Ven hồ có nhiều vĩa đá nhấp nhô như một hòn non
bộ do thiên nhiên tạo thành.
Hồ CK7
Là công trình thủy lợi nằm trên xã Nhị
Hà, huyện Ninh Phước, dung tích 1,5 triệu m3, có nhiệm vụ cung cấp nước
phục vụ nông nghiệp cho huyện Ninh Phước vào mùa khô
(từ tháng 3 đến tháng 10), diện tích mặt hồ rộng khoảng 30 hecta.
Vườn quốc gia Núi Chúa
Nằm phía Đông Bắc tỉnh Ninh Thuận, cách
thành phố Phan Rang - Tháp Chàm chừng 20 km, vườn quốc gia núi Chúa có
tài nguyên rừng rất phong phú, đa dạng với diện tích
rừng nguyên sinh khoảng 29.865 hecta. Núi Chúa có độ cao 1.040 mét
so với mặt biển, nơi có 1.265 loài thực vật bậc cao, đặc hữu quý hiếm;
306 loài động vật hoang dã, có nhiều loài được ghi vào
sách đỏ thế giới như: chà vá chân đen, gấu ngựa, gấu chó, beo lửa...
Đến núi Chúa, du khách có thể khám phá nhiều điều thú vị của vườn
quốc gia đang được bảo tồn. “Hồ Treo” trên vách núi đá, là một địa chỉ
được nhiều du khách tìm đến. Mặt hồ có đường kính từ 70
mét đến 80 mét, nước trong xanh quanh năm, là nơi sinh trưởng của
nhiều giống động, thực vật. Len lỏi trên sườn núi cao là những dòng suối
chảy xiết, tung bọt nước trắng xoá: suối Lồ Ồ, Đông Nha,
Kiền Kiền, thác Đá Thao...là những thắng cảnh đẹp như trong truyện
cổ tích, nằm giữa những vách núi đá với nhiều thác nước chảy mạnh hoặc
làn nước lặng lờ, trong xanh, mát lạnh. Đặc biệt, nơi đây
được thiên nhiên điểm tô các khối đá hoa cương lộng lẫy, đồ sộ quanh
năm được dòng nước đánh bóng, là nơi lý tưởng cho du khách dừng chân
ngắm cảnh đẹp thần tiên.
Dưới đáy biển trong vườn quốc gia núi Chúa là các rạn san hô đa dạng
sắc màu. Tàu đáy kính của các công ty du lịch sẽ đưa du khách ngắm san
hô và động vật biển qua các ô kính. Vườn quốc gia núi
Chúa còn có Bãi Hõm - nơi có bốn trong năm loài rùa biển thường lên
bờ sinh sản, được xếp vào danh sách động vật quý hiếm của vùng biển Đông
Nam Á.
Khu bảo tồn thiên nhiên Phước Bình
Nằm cách thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm khoảng 70 km về hướng Tây Bắc, Phước Bình có độ cao khoảng 500 mét
so với mặt nước biển. Rừng Phước Bình còn giữ được nhiều
loài cây lấy gỗ và nhiều loài động vật hoang dã quý hiếm. Khu bảo
tồn thiên nhiên rừng Phước Bình có tổng diện tích 19.814 hecta. Đây là
khu bảo tồn sự đa dạng sinh học và còn tính nguyên vẹn của
hệ sinh thái. Đến đây, du khách được tận mắt nhìn thấy của các loài
thú rừng như sơn dương đỏ, rái cá, chồn bạc má, chim công...cùng với
thảm thực vật xanh ngút ngàn và nhiều loài phong lan hương
sắc độc đáo chỉ ở Phước Bình mới có.
Du lịch Phước Bình đưa con người tìm về với sự yên tĩnh của thiên
nhiên. Du khách được sống trong không khí trong lành của thời tiết bốn
mùa dịu mát tựa như đang du ngoạn chốn cao nguyên Lang
Biang. Dòng sông Tô Hạp nước chảy lượn lờ, quanh năm trong vắt ôm ấp
bản làng của đồng bào Raglai. Những vườn cây ven núi bốn mùa hương
thơm, trái ngọt cung cấp sản vật cho du khách về thăm Phước
Bình.
Rượu cần Phước Bình nổi tiếng thơm ngon được cất giữ từ men lá rừng
xanh và nước suối đầu nguồn của dòng Tô Hạp. Tiếng mõ la, tiếng khèn bầu
hoà quyện cùng tiếng kèn chapi đâu đó xa xa trên các
nương ngô rộn ràng làm say đắm lòng người. Tục cúng đầu lúa, tục
cúng bỏ mả với những lễ nghi mang đậm sắc thái tâm linh sẽ là điểm đến
của những người yêu thích nghiên cứu văn hoa dân gian.
Thiên nhiên kỳ thú Phước Bình gắn liền với địa danh bãi đá Pinăng
Tắc huyền thoại đang gợi mở hướng du lịch sinh thái kết hợp tham quan di
tích lịch sử và văn hoá Raglai bản địa.
Rừng nguyên sinh đèo Ngoạn Mục
Từ đèo Ngoạn Mục (thuộc huyện Ninh Sơn)
du khách có thể thu vào tầm mắt toàn bộ cảnh quang xung quanh được
thiên nhiên kiến tạo thành một bức tranh hài hòa, với những
suối thác cắt ngang vách núi, những dãy núi đồi với hệ thực vật khá
phong phú đa dạng và đặc trưng bao gồm các loài cây ôn đới như: thông lá
dẹt, thông lá tròn xuất hiện ngày một nhiều theo hướng
dốc núi cao dần. Rừng khộp tái sinh với những ưu thế là khá nhiều
cây dầu rái, dầu trà ben, tiếp đến là rừng thường với các loài cây xanh
vùng nhiệt đới núi thấp. Ở phía Đông có các loài dẻ, re,
chạy dần sang phía tây là những đồi thông, loài thực vật đặc trưng
của vùng khí hậu ôn đới.
Hiện tại, do đang ở trạng thái phục hồi bằng tái sinh tự nhiên nên
rừng có chỗ còn chưa khép kín, chưa có sự phân tầng rõ ràng, lớp thảm
dưới còn nhiều cây ưa sáng, chịu hạn. Thỉnh thoảng có
những thác nước ven đường. Những thác nước này có hàm lượng nước vừa
phải vào mùa khô và hùng vĩ vào mùa mưa. Đây là tuyến đi qua nhiều cánh
rừng hẹp, điểm dừng chân lý tưởng cho du khách khi lên
và xuống đèo Ngoạn Mục. Có thể tổ chức các tuyến Trekking tour theo
dọc tuyến đèo này ở cấp độ 1, 2 cho du khách
Cồn cát di động Phước Dinh
Ở phía tây bắc mũi Dinh, huyện Ninh
Phước có những dải cồn cát cao từ 20 mét đến 30 mét bên thoải, bên dốc
đứng chạy dài theo chiều dọc nối tiếp nhau trên diện tích
khoảng 10 km2. Cồn cát nơi đây rất đặc biệt: mỗi năm hai lần, những
cồn cát này khi thì tiến sâu vào đất liền, khi thì lại lùi dần ra phía
biển.
Từ trên đỉnh đồi nhìn xuống có thể thấy gió cuốn cát thành từng cơn
lốc nhỏ, bốc tung lên ném về sườn dốc đứng phía bên kia. Cát bay làm cho
đỉnh cồn cát luôn mờ ảo trong những tia nắng đỏ ối
chiều tà. Phía sườn hứng gió, mặt cát đanh lại, rắn chắc như để
chống chọi với quá trình phong hóa. Sườn này thoai thoải hơn. Chạy dọc
theo đỉnh về phía sườn gió là những con đường khá mịn và rắn
chắc. Vách dốc phía cuối gió hầu như dốc đứng, xốp và cũng mù mịt
bởi cát rơi. Vách này theo thời gian cứ lùi dần, lùi dần ra phía sau làm
cho toàn bộ cồn cát dịch chuyển hàng mét mỗi ngày. Sau
phút ngỡ ngàng, du khách sẽ rất thích thú trượt xuống theo các vách
dốc này để thử lòng dũng cảm.
Ngay dưới chân những dãy cồn cát ấy là những dòng suối uốn lượn đổ
ra biển. Một số không kịp đổi dòng bị các cồn cát chặn lại tạo thành
những hồ nước nho nhỏ trong mát và ngọt ngào giúp cho du
khách thêm can đảm vượt tiếp các dãy cồn cát trước mặt. Nơi đây có
thể tổ chức các loại hình như chụp ảnh lưu niệm, chinh phục cồn cát,
trượt cát.
Cồn cát đỏ Nam Cương
Đến với cồn cát đỏ Nam Cương của huyện
Ninh Phước, du khách sẽ được chứng kiến tận mắt màu đỏ ráng chiều của
cồn cát thiên nhiên. Sinh động và hấp dẫn hơn là khi du
khách bắt gặp những chủ nhân của vùng đồi cát này, đó là lòai nhông
cát thoắt ẩn, thoắt hiện như đùa giỡn, như thách đố, chọc ghẹo du khách.
Cho đến nay các nhà địa chất vẫn chưa thống nhất trong
cách lý giải nguyên nhân tạo thành của khối cát đỏ này.
Một số cho rằng đó là kết quả của quá trình phong hóa và vận chuyển
đá bazan từ trên cao nguyên trung phần. Một số khác lại tìm nguyên nhân ở
quá trình phong hóa các lọai cát kết có chứa hàm
lượng ôxit sắt cao. Cồn cát đỏ Nam Cương có thể tổ chức các họat
động tham quan, nghiên cứu, chụp ảnh lưu niệm, trượt cát...
Cồn cát trắng Tuấn Tú
Cách trung tâm thành phố Phan Rang -
Tháp Chàm khoảng 8 km về phía Đông Nam, thuộc địa phận làng văn hóa Tuấn
Tú, huyện Ninh Phước, là hiện thân của những đồi cát
trắng mịn kết nối thành những thung lũng cát gợn sóng, nhiều hình
thù lạ mắt và được điểm tô bởi sắc màu của biển khơi, hoa xương rồng,
làng mạc cùng những hàng dương xanh ngát vươn mình giữa sa
mạc cát mênh mông. Tạo nên một khung cảnh hữu tình cho du khách
thưởng ngoạn.
Từ trên cao quý khách có thể quan sát toàn cảnh Ninh Thuận, thưởng
thức những hương vị của biển khơi và trầm trồ trước cồn cát trắng mịn,
gợn sóng êm đềm và ấm áp như tình thương của người mẹ.
Cồn cát trắng Tuấn Tú hiện còn giữ nét hoang sơ vốn có. Mỗi khi
hoàng hôn buông xuống hoặc những đêm trăng thanh gió mát nơi đây là điểm
hẹn cuả các bạn trẻ trong tỉnh và những người yêu quý
thiên nhiên. Trong thời gian gần đây, cồn cát trắng Tuấn Tú ngày
càng thu hút khách gần xa, nhất là khách nước ngoài đang thích thú với
những điểm du lịch này.
Bãi Đá Vách
Du khách có thể tiếp cận mũi Đá Vách
bằng hai cách, cách thứ nhất là đi tàu, thuyền từ vịnh Vĩnh Hy lên, cách
thứ hai là đi bộ từ làng chài phía bắc vịnh Vĩnh Hy.
Khung cảnh của bãi Đá Vách khá hùng vĩ với những đợt sóng lớn tung
bọt trắng xóa đập vào vách đá có độ cao từ 20 mét đến 30 mét sừng sững
dựng đứng nhô ra biển tạo thành một bức tường lớn đối
chọi với sóng biển. Toàn bộ bức tường thành này dài chừng 4.500 mét.
Hầu hết các vết nứt chạy theo chiều dọc, cắt vách núi thành những khối
đá khổng lồ, hình thành nên những hình tượng lạ trong
trí tưởng tượng của du khách. Chân vách chỉ bị bào mòn nhẹ, có chỗ
khối đá đổ xuống chắn ngang như một lưỡi cày khổng lồ.
Dịch lên phía bắc, các tảng đá lớn có những vết kẻ nham nhở theo
chiều từ trên xuống như có ai muốn khắc dấu ấn của mình thách thức cùng
thời gian. Tiếp đến là khối đá màu sẫm như màu gạch nung
quá lửa và những đám cỏ xanh tập trung ở các khe nứt phía trên, rồi
đến các tảng đá có màu đất sét đồ sộ... Tạo nên những cảnh sắc thật ấn
tượng. Mũi Đá Vách kết thúc ở phía Bắc bằng các phiếm đá
lớn xếp dựng đứng cạnh nhau.
Qua khối đá này có thể nhìn thấy các bãi Thùng, bãi Hời, bãi Lớn,
bãi Kinh, bãi Nước Đỏ, bãi nước ngọt, bãi Chà Là, bãi Bình Tiên. Ngoài
cắm trại, thưởng thức hải sản do chính tay mình chế biến,
ngắm cảnh đẹp hùng vĩ thơ mộng...du khách có thể thử thách lòng dũng
cảm của mình tại đây.
Bãi Hời
Nằm chếch về phía Tây Bắc bãi Thùng và
phía Bắc của bãi Lớn, bãi Hời rất sạch, cát có độ mịn cao, độ dốc đáy
biển vùng ven bờ không lớn. Phía trước mặt bãi Hời là đảo
Bình Hưng của tỉnh Khánh Hòa nằm chếch về phía Đông Bắc. Vùng này có
thể phát triển các hoạt động như tắm biển, tham quan vịnh và lặn biển
vì nước ở đây trong, độ sâu từ 3 mét đến 6 mét, khá an
toàn. Ngoài ra, nơi đây còn tổ chức loại hình du lịch thể thao mò
tôm giống, trên đồi phía sau bãi tắm có thể phát triển thành những sân
golf.
Bãi Thùng
Đi về phía đông nam bãi Cà Tiên hoặc
phía nam mũi Đá Vách du khách bắt gặp một bãi biển có độ dài khoảng 400
mét, cát mịn, đôi chỗ có những mảnh san hô vụn nằm trên
nền cát trắng, đó chính là bãi Thùng. Phía xa bãi Thùng là các vách
đá đỏ cùng với những hòn đá sót lại ven biển tạo nên sự tương phản về
màu sắc và kỳ thú của cảnh quan nơi đây.
Bãi Thùng có độ sâu vừa phải, gần bờ là cát pha chút mảnh san hô vỡ,
xa hơn là mặt đá bị mòn tạo nên những phiến đá bằng phẳng, rất độc đáo.
Sóng tại đây không lớn như ở Cà Tiên, nước trong xanh
có thể nhìn thấy đáy khi bơi lặn, thám hiểm thủy cung...
Bãi biển Cà Tiên
Nằm gần tận cùng phía Bắc tỉnh Ninh
Thuận, thuộc địa bàn huyện Ninh Hải, bãi biển Cà Tiên có chiều dài 3,8
km là một trong những bãi biển đẹp vì sự hoang sơ của nó.
Bãi biển có bờ cát trắng mịn, ven bờ độ dốc không lớn, có những hàng
dừa xanh ngát vươn mình ra biển rộng. Vào mùa khô, ở đây có sóng rất
to, thuận lợi cho họat động du lịch thể thao lướt sóng...
Mặt khác, điều kiện khí hậu biển Cà Tiên còn cho phép tổ chức các
họat động du lịch quanh năm tại đây.
Bãi tắm Cà Ná
Hành trình trên quốc lộ 1A, khi đến
đoạn giáp ranh Bình Thuận - Ninh Thuận, biển Cà Nà hiện ra bát ngát, bao
la được mệnh danh là nàng công chúa ngủ quên. Biển xanh,
cát trắng, ghềnh đá, núi non...cộng với các tuyến đường giao thông
uốn lượn qua các eo biển, tạo cho Cà Ná một cảnh quan đầy ngoạn mục với
khí hậu nắng ấm quanh năm. Cà Ná có đủ loại hình du lịch
leo núi, khám phá những danh lam, di tích còn giữ nguyên nét hoang
sơ, du lịch biển, hải đảo...
Nước biển Cà Ná xanh thẳm, có độ mặn cao hơn các vùng khác từ 3% đến
40%, chỉ cần từ bờ lội ra khơi chừng 20 mét, với độ sâu chỉ khoảng từ 1
mét đến 1,5 mét, du khách có thể thỏa sức ngắm các rạn
san hô rất đẹp ẩn sau tầng nước. Bãi tắm trải dài xa hút, cát trắng
tinh anh, sạch sẽ. Những ghềnh đá hoa cương điểm xuyến thêm nét đẹp đặc
trưng của Cà Ná. Chính những ghềnh đá này tạo nên nhiều
hang động kỳ bí như: hang Ông Phật, ghềnh Ông Nồng, giếng Đục...
Đến đây, du khách sẽ được đắm mình trong dòng nước xanh mát, chiêm
ngưỡng những mỏm đá đủ loại hình thù nằm sát mép bờ, chụp ảnh lưu niệm
hoặc tổ chức leo núi, thưởng thức các món ăn đặc sản,
thăm các danh thắng, các công trình văn hóa đặc sắc, các làng nghề
truyền thống của dân tộc Chăm thuộc huyện Ninh Phước, đi thuyền ra đảo
Cù Lao Câu, tắm nước khoáng Vĩnh Hảo.
Bãi biển Phước Dinh
Chỉ với 5 km chiều dài, bờ cát mịn,
phía xa xa là những đồi cát cao, nằm liền kề khu dân cư cùng rừng dương
xanh mát, bãi biển Phước Dinh của huyện Ninh Phước thật sự
hấp dẫn du khách. Với độ dốc lớn và sóng to, biển Phước Dinh có thể
phát triển các họat động du lịch thể thao biển như lướt ván, lướt sóng,
lặn... Biển nơi đây còn có những khối san hô phủ rêu
xanh ôm bọc lấy đường bờ, bảo vệ bờ biển không bị sóng xâm thực vào
sâu đất liền rất thích hợp cho việc xây dựng những công trình để đón
tiếp, phục vụ khách khá an toàn.
Bãi biển Từ Thiện
Nằm ở phía bắc Mũi Dinh, thuộc địa bàn
huyện Ninh Phước. Biển Từ Thiện có đặc thù riêng so với các bãi biển
khác, nơi đây nước biển trong xanh, sóng yên, biển lặng
mênh mông. Với những ưu điểm này nên biển Từ Thiện là nơi tắm biển
lý tưởng, nhất là đối với người già, trẻ nhỏ và người khuyết tật. Ngoài
việc tắm, ở đây còn có thể tổ chức nhiều hoạt động thể
thao, vui chơi giải trí như lướt ván, bơi thuyền...
Bãi biển Tuấn Tú
Nằm phía sau làng văn hóa Tuấn Tú,
huyện Ninh Phước. Biển nơi đây mênh mông nhưng khi đến đó con người cảm
thấy thật gần gũi, thân thiện và an toàn. Với những dải cát
trắng lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời, cùng với dòng nước trong
xanh, mát rượi.
Biển Tuấn Tú rất thích hợp cho việc tắm biển, nghỉ ngơi rất an toàn
cho khách du lịch. Xung quanh biển còn có một quần thể thiên nhiên hài
hòa khác, đó là động cát thơ mộng Tuấn Tú, thác Đá Sối
ngày đêm đổ những dòng nước mát từ trên độ cao 12 mét xuống tung bọt
trắng xóa tạo nên nét độc đáo riêng của bãi tắm nơi này.
Bãi biển Ninh Chữ - Bình Sơn
Nằm cách trung tâm thành phố Phan Rang -
Tháp Chàm 6 km về phía Đông. Đây là một trong chín bãi tắm đẹp của Việt
Nam, có chiều dài 10 km, bờ biển bằng phẳng hình vòng
cung, cát trắng mịn, nước trong xanh, không khí trong lành quanh năm
sóng vỗ rì rào.
Xung quanh có rừng dương xanh ngút ngàn, những cánh đồng lúa bát
ngát thoang thoảng hương thơm, Đầm Nại giàu tôm, cá, mực, núi Đá Chồng,
núi Tân An, núi Cà Đú với những tảng đá lớn nhỏ xếp chồng
lên nhau tạo thành một quần thể thiên nhiên hài hòa, hữu tình, khí
hậu mát mẻ, nắng ấm quanh năm... Khách du lịch đến đây có thể tắm biển,
leo núi, thăm chùa, đình cổ ở núi Đá Chồng (Dư Khánh),
xa hơn nữa có thể du lịch dã ngoại ở Vĩnh Hy, săn bắn ở suối nước
ngọt, đi ca-nô, mô tô nước quanh bờ biển Ninh Chữ, Đầm Nại, đến Hòn
Thiên.
Thác Tiên
Từ trung tâm thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm chạy xuôi khoảng 32 km về hướng Tây Bắc, dọc theo quốc lộ 27B đi
Đà Lạt, du khách sẽ nhìn thấy từ xa, giữa núi rừng hùng
vĩ, những dòng thác trải dài từ trên cao xuống như những suối tóc
óng ả và mềm mại của các nàng tiên buông xõa. Đôi khi những giọt nước vô
tình văng trên những phiến đá tạo nên những tia sáng lấp
lánh, gieo vào lòng du khách một ấn tượng khó phai. Đến thác Tiên du
khách được hít thở không khí trong lành, tham quan, chụp hình, cắm
trại, leo vách đá, vượt suối, bắt ốc, câu cá và tổ chức các
trò chơi vui nhộn. Vào những ngày nghỉ, ngày lễ, nơi đây thu hút bạn
trẻ yêu thiên nhiên hoang dã tìm về để đắm mình giữa thiên nhiên.
Thác SaKai
Bắt nguồn từ đèo Ngoạn Mục, hạ lưu của
nó có dòng chảy cuối cùng tiếp giáp với công trình nhà máy thủy điện Đa
Nhim. Đến với thác SaKai du khách sẽ được hòa mình vào
phong cảnh thiên nhiên hoang dã với những khối đá đồ sộ phản chiếu
ánh nắng mặt trời tạo nên những sắc cầu vồng loang loáng giữa rừng xanh
bạt ngàn cùng với những thác nước từ độ cao hàng trăm
mét lao xuống ầm ầm, bọt tung trắng xóa như những đoá hoa khổng lồ.
Cùng với việc thưởng thức cảnh đẹp núi rừng hùng vĩ dọc theo hai bên đèo
Ngoạn Mục, du khách nghe vọng lại tiếng thác đổ rì rào
như dàn hợp xướng giữa núi rừng sâu thẳm càng làm tăng cảm giác
hoang dã và huyền bí.
Ẩm thực
Đến với Ninh Thuận, du khách không chỉ tham quan các bãi biển nổi
tiếng như Ninh Chữ, Vĩnh Hy, viếng thăm các tháp cổ Chăm hoặc mua sắm
những món quà lưu niệm từ các làng nghề mà còn có dịp
thưởng thức nhiều món đặc sản: lạ, ngon và hấp dẫn.
NÉT HẤP DẪN CỦA
Ẩm thực Ninh Thuận
Đến với Ninh Thuận, du khách không chỉ tham quan các bãi biển nổi
tiếng như Ninh Chữ -Vĩnh Hy, viếng thăm các tháp cổ Chăm hoặc mua sắm
những món quà lưu niệm từ các làng nghề mà còn thưởng thức
được nhiều món ăn lạ, ngon và hấp dẫn.
Trước tiên, du khách có thể thưởng thức các món ăn từ
con dông được chế biến thành bảy món khác nhau gọi là dông 7 món: dông
nướng, gỏi dông, cháo dông, dông bằm xúc bánh tránh, lẩu
dông lá me... Dông là một loại bò sát sống ở những đụn
cát nay nắng nóng, có hình dáng mảnh mai như con thằn lằn nhưng rất
nhanh nhẹn. Người Ninh Thuận có biệt tài chế biến món ăn
này, mỗi kiểu chế biến cho người ăn một cảm giác khác nhau, mùi thịt
dông thơm ngon và ngọt đến kỳ lạ làm bạn không thể nào quên mà hầu hết
các nhà hàng nào cũng chế biến để phục vụ du
khách.
Tiếp đến các món ăn được chế biến từ thịt dê, trừu (hoặc
cừu) cũng là một nghệ thuật ẩm thực không kém phần hấp dẫn mà du khách
mỗi lần đến Ninh Thuận không thể bỏ qua.
Hiện nay, tại tháp Pôsanư, du khách đến tham quan sẽ được đãi món
thịt dê truyền thống của đồng bào Chăm. Sau khi thưởng lãm chương trình
nghệ thuật ca múa nhạc Chăm, du khách được mời đến khu
vực ẩm thực để thưởng thức món ăn Chăm. Món đầu tiên là dê nướng
xiên. Thịt dê được ướp gia vị truyền thống của người Chăm có hương vị
rất đặc biệt, đậm mùi sả và riềng, có vị cay. Món thịt dê
luộc khá dân dã nhưng ăn không ngán nhờ phần da dòn. Món thứ ba là
rau sống ăn kèm với nước xúp cũng nấu từ nước luộc dê. Món thứ tư có thể
ăn no là bún ăn với cà ri dê nấu cùng các loại khoai và
nước cốt dừa, khá béo. Nếu như đồng bào Chăm ở Châu Giang (An Giang)
có những món ăn đặc trưng, nổi tiếng nhất là món tung lò mòòòò (lạp
xưởng bò), món ga pội (giống cà ri), cơm nị cà púa thì
người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận có nhiều món ngon từ thịt dê, có
lẽ ảnh hưởng nền văn hóa du mục.
Nhắc đến Phan Rang là phải nhắc đến cơm gà, gà ở đây là
gà vườn thịt ngọt và mềm rất nổi tiếng và ngon một kiểu riêng, hoạt động
phục vụ du khách cả ngày đêm từ các tiệm ăn, nhà hàng
lớn đến các quán bình dân ở các khu phố, đường phố, chợ về đêm. Rau
muống xào tỏi cũng là món ăn ấn tượng, cọng rau muống vùng sỏi đá to
nhưng mềm (khi xào có màu xanh mướt), cùng với tỏi thơm
của Ninh Thuận đem lại cho món ăn này có sức hấp dẫn riêng.
Vùng biển Ninh Thuận có nhiều loài hải sản phong phú như: cua,
ghẹ, mực, ốc giác, ốc hương, ốc nhung, sò lông, sò dương, sò điệp,
hào,.... Du khách có thể nướng, luộc, hấp hoặc nướng
mỡ hành tùy thích. Lẫu cá mú cũng là món ăn ngon không kém, mực khô
một nắng của Phan Rang thơm, mềm và ngọt bởi cái nắng riêng của vùng khô
hạn. Đồng thời, bạn cũng không nên bỏ qua món gỏi cá
mai. Đây là loại cá cùng họ với cá cơm, nhưng là động
vật máu trắng, không tanh, chỉ một lần thưởng thức món này du khách mới
cảm thấy đến với Phan Rang thật là thú vị.
Dạo phố biển về khuya, thưởng thức món ăn bình dân mà đậm đà hương
vị, một thú vui khi du lịch mà bất kỳ ai cũng quan tâm. Quán ăn khuya ở
Ninh Thuận không thiếu, nhưng đông khách nhất là phố ăn
khuya cuối đường Quang Trung, chợ Phan Rang, dọc theo đường Yên Ninh
ven biển... Nơi đây bày bán bánh căn, bánh xèo, mì quảng... Có thể nói
bánh xèo là một món ăn quen thuộc trong đời sống ẩm
thực hàng ngày của người dân Ninh Thuận.
Bánh xèo ở đây có thể ăn no mà không ngán,
đậm đà hương vị của biển. Bánh được đổ trong những chiếc khuôn làm bằng
đất nung đặt trong một cái lò tròn. Bánh không dùng
nhiều dầu để tráng khuôn, lượng bột vừa đủ dày để tạo ra độ giòn mà
không mất độ dẻo của bánh, nhân bánh được thêm giá sống và hải sản rất
tươi ngon như tôm, mực. Nước mắm ăn với bánh xèo được
pha với ít đậu phộng giã nhuyễn, hơi lạt để có thể cho chiếc bánh
vào ngập chén nước mắm mà không bị mặn. Về khuya, trong cái se lạnh của
phố biển, thưởng thức món bánh xèo bên bếp lửa hồng quả
là ấm tình. Một món ăn khá độc đáo khác là món bánh căn. Bánh căn
gần giống bánh khọt, nhưng làm bằng bột gạo pha nếp, nhân bánh dùng tôm,
mực, thịt hay trứng, đậm đà và ngon hơn với chén nước
chấm làm từ đậu phụng rang xay nhuyễn, thêm vị chua của me, ngọt của
đường, mùi thơm của tỏi phi, hành phi cùng nhiều loại nước chấm khác để
tạo ra cảm giác thú vị riêng. Du khách cũng có dịp
thưởng thức một số loại bánh làm từ bột gạo gói bằng lá chuối, đặc
biệt là bánh gạo tấm và bánh gừng rất nổi tiếng của người Chăm vùng Ninh
Thuận.
Ngoài ra, bánh canh chả cá là một món ăn rất
phổ biến ở Ninh Thuận nên bạn có thể tìm thấy rất dễ dàng. Sợi bánh
được làm bằng bột gạo, nước nấu bằng cá biển và người ta
dùng cá này cho vào tô bánh kèm với chả cá. Chả có hai loại chả hấp
và chả chiên, chả vừa dai vừa mềm, vị ngon của cá còn giữ đậm đà. Nước
bánh nấu với lửa liu riu nên rất trong, ít béo. Khi ăn,
du khách thêm ít hành lá, ít nước mắm dầm ớt cay, vắt vào một tí
chanh là sẽ có một tô bánh nóng hổi thật hấp dẫn.
Điều bặc biệt, các món ăn ở Ninh Thuận được ưa thích hầu hết là
những món ăn dân dã, bình dân, dễ làm, không cầu kỳ. Hàng quán cũng rất
bình dân, thậm chí chỉ là một gánh hàng ở vĩa hè nhưng có
một sức hút khách ẩm thực rất đông. Đến đây, nhiều người không khỏi
ngạc nhiên khi nghĩ rằng, ở một xứ sở đầy nắng gió mà sản vật rất phong
phú và người ta có thể chế biến được quá nhiều món ăn
ngon. Món ăn Ninh Thuận thể hiện nét văn hóa rất riêng của người dân
nơi đây. Khi thưởng thức món ăn đó, du khách có thể khám phá được phần
nào tâm hồn của họ, rất bình dị, gần gũi với thiên
nhiên và chan hòa tình cảm cộng đồng.
Trở về sau chuyến đi, ngoài những bức ảnh kỷ niệm, bạn đừng quên
chia sẻ hương của gió, vị mặn của biển, vị nồng của nắng gió Ninh Thuận
cùng bạn bè người thân qua những món quà đặc trưng của
vùng đất này. Tìm quà mang giá trị lưu niệm, không gì bằng những
chiếc ví, túi xách, những thước vuông vãi thổ cẩm Chăm xinh xắn hay các
bức tranh sơn mài hữu tình, những tác phẩm của gốm Bàu
Trúc thanh tao đầy mỹ thuật... Để người thân mình thưởng thức được hương
vị đặc trưng Ninh Thuận, bạn đừng ngần ngại khi mang về một chút mặn mà
của hải sản khô, chút ngọt ngào của
nho tươi, mật nho, chút chua cay của nem, chút nồng đắng của rượu
nho, chút hương thơm đậm đà của hành, tỏi, chút mặn ngọt thơm tinh khiết
của nước mắm Phan Rang..., tất cả đều là đặc sản nổi
tiếng, là ân tình của người dân Ninh Thuận, sẽ kể thay bạn những kỷ
niệm về vùng đất này với những người thân yêu.
Đến Ninh Thuận, bạn nên thưởng thức
bánh căn. Nguyên liệu chính của bánh căn là bột gạo. Muốn bánh ngon,
giòn, nở phải pha thêm một ít bột cơm nguội phơi khô nhiều
nắng. Nước chấm bánh căn gồm: mắm nêm, mắm đậu phộng, mắm chanh ớt
và đặc biệt là nước cá kho.
Riêng nước cá kho, thường người ta chưng kho các loại cá biển như cá
cơm, cá nục, cá thu... thêm một ít da heo. Không dùng cá ngừ để kho lấy
nước chấm vì vị chua của cá ngừ sẽ "đào thải" cái vị
bùi béo của bánh căn. Khi thưởng thức có thể pha chung các loại nước
chấm với nhau hoặc dùng riêng từng loại nước chấm tùy theo sở thích của
từng người. Nếu muốn thưởng thức thêm hương vị đặc
biệt, bạn có thể dùng thêm mấy viên xíu mại (được chế biến từ thịt
bằm và trứng, thêm gia vị vào).
Lò để đổ bánh căn được đặt tại làng gốm Bàu Trúc (thị trấn Phước
Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận). Lò có từ 10 - 15 khuôn tròn
đường kính 15cm, mỗi khuôn lại có một nắp đậy khi đổ bánh.
Lửa than trong lò luôn đỏ rực, bột gạo được đánh đều với trứng vịt
(hoặc trứng gà) và lấy muỗng đổ vào khuôn chừng 5 phút thì bánh chín
vàng rộm, có hương thơm rất đặc trưng.
Bánh căn được đưa vào đĩa, rắc thêm một ít mỡ hành. Nên ăn bánh căn
ngay tại quán, khi bánh đang nóng và giòn tan, bỏ vào miệng bạn sẽ
thưởng thức được tất cả vị ngon lành.
SƠ LƯỢC VỀ NHO VÀ CÁCH TRỒNG NHO:
Nho là một từ để chỉ loại quả mọc trên
các cây dạng dây leo thân gỗ hoặc để chỉ chính các loài cây này. Các
loài cây này thuộc về họ Vitaceae. Quả nho mọc thành chùm
từ 6 đến 300 quả, chúng có màu đen, lam, vàng, lục, đỏ-tía hay
trắng. Khi chín, quả nho có thể ăn tươi hoặc được sấy khô để làm nho
khô, cũng như được dùng để sản xuất các loại rượu vang, thạch
nho, nước quả, dầu hạt nho. Trong tiếng Trung, nó được gọi là葡萄(bồ
đào) và khingười ta nói đến rượu bồ đào tức là rượu sản xuất từ quả nho.
Tuy nhiên, các loài nho dại lại bị coi là một loại cỏ dại gây nhiều
phiền toái, do chúng che phủ các loài thực vật khác với tốc độ tăng
trưởng rất nhanh của mình.
Nho bị ấu trùng của một số loài côn trùng thuộc bộ Lepidoptera phá
hại - xem thêm tại Danh sách các loài cánh vẩy phá hại nho.
Phân loại:
Hiện có rất nhiều loài nho đang tồn tại, chúng bao gồm:
Vitis vinifera, loài nho dùng để sản xuất rượu vang ở châu Âu. Có nguồn gốc ở châu Âu lục địa.
Vitis labrusca, loài nho dùng để ăn tươi và sản xuất nước nho tại
Bắc Mỹ, đôi khi cũng dùng để sản xuất rượu vang. Có nguồn gốc ở miền
đông Hoa Kỳ và Canada.
Vitis riparia, loài nho hoang dại ở Bắc Mỹ, đôi khi được dùng sản
xuất rượu vang hay làm mứt. Có nguồn gốc ở miền đông Hoa Kỳ, kéo dài về
phía bắc tới Quebec.
Vitis rotundifolia, nho muxcat hay nho xạ, được sử dụng làm mứt và
rượu vang. Có nguồn gốc ở miền đông nam Hoa Kỳ, từ Delaware tới vịnh
Mexico.
Vitis aestivalis, giống Norton (AKA Cynthiana) được dùng để sản xuất rượu vang.
Vitis lincecumii (còn gọi là Vitis aestivalis hay Vitis lincecumii),
Vitis berlandieri (còn gọi là Vitis cinerea thứ helleri), Vitis
cinerea, Vitis rupestris: Được sử dụng để lai ghép nhằm tạo ra
các giống nho chống chịu bệnh, dưới dạng thân ghép (thân rễ).
Vitis arizonica, một loài nho vùng sa mạc ở miền tây nam Hoa Kỳ,
chịu được sự chênh lệch nhiệt độ lớn. Có thể dùng sản xuất rượu vang.
Vitis californica, một loài nho quan trọng đối với công nghiệp sản
xuất rượu vang của California vì các thân ghép của chúng có khả năng
chịu dịch bệnh và thời tiết lạnh. Có nguồn gốc ở California
và Oregon.
Vitis vulpina, loài nho chịu sương muối. Có nguồn gốc ở vùng Trung
Tây nước Mỹ kéo dài về phía đông tới vùng bờ biển thuộc bang New York.
Hiện nay, người ta đã tạo ra nhiều giống nho để trồng; chủ yếu là các giống của V. vinifera.
Các loài nho lai ghép cũng tồn tại, chủ yếu là lai ghép giữa V.
vinifera và một trong các thứ (biến chủng) của V. labrusca, V. riparia
hay V. aestivalis. Các giống lai ghép có xu hướng ít nhạy
cảm với sương muối và dịch bệnh (đáng chú ý là các loài rệp hại rễ
nho), nhưng rượu vang sản xuất từ chúng có thể có mùi vị chua đặc trưng
của labrusca.
Diện tích trồng nho:
Theo số liệu của FAO, 75.866 km² trên thế giới được dùng để trồng
nho. Khoảng 71% sản lượng nho được dùng sản xuất rượu vang, 27% để ăn
dưới dạng quả tươi và 2% làm nho khô.
Cánh đồng nho
Danh sách dưới đây liệt kê 11 quốc gia sản xuất rượu vang nho hàng
đầu thế giới với diện tích trồng nho tương ứng cho việc sản xuất rượu
vang:
Tây Ban Nha 11.750 km²
Pháp 8.640 km²
Italy 8.270 km²
Thổ Nhĩ Kỳ 8.120 km²
Hoa Kỳ 4.150 km²
Iran 2.860 km²
Romania 2.480 km²
Bồ Đào Nha 2.160 km²
Argentina 2.080 km²
Trung Quốc 1.780 km²
Australia 1.642 km²
Nguồn: FAO, Organisation Internationale de la Vigne et du Vin (pdf), Australian Wine and Brandy Corporation.
CÁCH TRỒNG NHO:
Sử dụng phân bón cho cây nho :
Hầu hết các giống nho trồng thuộc loài Vitis Vinifera L. Có một diện
tích nhỏ được trồng loài V. Rotundifolia (Muscadines), V. Labrusca
(Concord) và con lai giữa các loài. Trong hầu hết các
trường hợp, các giống nho Vitis Vinifera cần được ghép với gốc ghép
chống được rệp hại rễ lấy từ các loài có nguồn gốc Mỹ.
Trên thế giới có khoảng 10 triệu ha nho, được trồng trên nhiều loại
đất, ở các vùng khí hậu từ xích đạo tới nhiệt đới và á nhiệt đới. Năng
suất nho cũng biến động rất lớn, từ 5 - 35 tấn/ ha/ năm
tùy thuộc vào vùng trồng, điều kiện canh tác và mục đích sử dụng
(làm rượu nho loại ngon, loại thường, làm nho ăn tươi). Tuy được trồng ở
phổ rộng về khí hậu nhưng đặc điểm rất đáng chú ý của nho
là yêu cầu có một mùa khô đủ dài để tích lũy đường. Ở nước ta có
vùng Ninh Thuận, nam Khánh Hoà và bắc Bình Thuận là vùng bán khô hạn, có
điều kiện khí hậu, thời tiết và đất đai khá phù hợp cho
cây nho phát triển và hiện đang là vùng nho đặc sản của cả nước. Tuy
nhiên, do chưa được quan tâm đầu tư KHKT nên cây nho ở đây chưa có điều
kiện phát triển đúng với khả năng của nó. Những thiếu
sót nằm ở tất cả các mặt về chiến lược phát triển, cơ sở nghiên cứu,
giống trồng và kỹ thuật canh tác.
Nhu cầu dinh dưỡng của cây nho :
Lượng dinh dưỡng cây hút
Nhu cầu dinh dưỡng của cây nho phụ thuộc rất nhiều vào giống trồng,
điều kiện đất đai, khí hậu thời tiết và năng suất thu hoạch. Tuy nhiên
giới hạn chung của lượng dinh dưỡng lấy đi từ đất của cả
thân, lá và quả biến thiên như:
Lượng dinh dưỡng cây hút khi năng suất đạt từ 7 - 25 tấn/ ha
Lượng dinh dưỡng đa lượng (kg/ha/năm)
N : P2O5 : K2O : MgO : CaO = 22-84 : 5-35 : 41-148 : 6-25 : 28–204
Lượng dinh dưỡng vi lượng (g/ha/năm)
Fe : B : Mn : Zn : Cu -
292-1 37- 49- 110- 64-
121 228 787 585 910
Nguồn: Fregoni, 1984
Nếu phần thân và lá được vùi trở lại đất thì ước tính nó chiếm
khoảng 70% lượng N và 60% lượng P2O5 và K2O cây hút, do vậy nếu chỉ tính
lượng dinh dưỡng lấy đi do năng suất thì sẽ rất nhỏ so với
tổng lượng cây hút ở trên.
Chẩn đoán dinh dưỡng lá cây nho
Người ta có thể phân tích lá nho để chẩn đoán tình trạng dinh dưỡng
của cây. Sau đây là các nguồn số liệu khác nhau về chẩn đoán dinh dưỡng
lá cho cây nho. Do có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng nên
khó có thể so sánh các nguồn số liệu này. Cần có sự tham khảo và vận
dụng linh hoạt trong điều kiện Việt Nam.
Một số giới hạn và quan hệ của các nguyên tố dinh dưỡng trong cuống lá thời kỳ quả chín (xem bảng).
Hiện tại kết quả phân tích lá được sử dụng để chẩn đoán dinh dưỡng
(thiếu, đủ, gây độc) và để điều chỉnh sự khuyến cáo sử dụng phân bón.
Mặc dù số liệu phân tích lá không thể sử dụng trực tiếp để
xác định lượng phân cần thiết, nó vẫn cho phép đáp ứng được việc
thực hành bón phân theo mục tiêu năng suất, với điều kiện là các kết quả
được làm sáng tỏ bởi các tiêu chuẩn vùng đất, khí hậu,
giống, gốc ghép và tập quán canh tác.
Dinh dưỡng cây trồng còn ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm.
Thừa N có thể làm giảm cấu trúc mầu của quả và tất nhiên sẽ ảnh hưởng
đến chất lượng rượu và tăng khả năng bị nhiễm bệnh của
cây. Tương tự, thừa Kali có thể làm giảm độ axit của quả và của hèm
rượu và chính vì vậy ảnh hưởng xấu đến chất lượng rượu. Thừa Kali còn
gây ra sự thiếu Magie do đối kháng ion giữa K và
Mg.
Nguyên tố dinh dưỡng/quan hệ Giới hạn Đánh gía
N >6 %o* Dinh dưỡng N bình thường
P > 1.5 %o* DD P bình thường
K/Mg < 1 Thiếu K
K/Mg > 10 Thiếu Mg
K/Mg 2 to 8 DD K và P bình thường
B < 15 ppm* Thiếu B
(* so với chất khô) - Nguồn: Delas, 1990
Bón trước khi trồng: Cần bón lót phân sâu trong đất để nâng hàm
lượng dinh dưỡng trong lớp đất sâu như Lân, Kali, Canxi, Magie. Những
chất này rất ít di động nên có thể tích lũy trong đất để cây
sử dụng dần dần. Mặt khác, bón phân lót còn có tác dụng điều chỉnh
độ chua đất, làm giảm sự gây độc của Al và Cu nếu đất chua. Ngoài ra
phân chuồng trong phân lót còn nâng cao độ mùn, tăng khả
năng hấp thu dinh dưỡng cho đất. Tùy theo số liệu phân tích đất lớp
mặt và lớp dưới, số lượng dinh dưỡng cần bón dao động từ 0 - 600 kg
P2O5, 0 -1000 kg/ ha K2O, 0 - 300 kg/ha MgO, bón vôi (ở
những nơi pH < 6) với liều 2000-10.000 kg/ha CaO, và 0 - 100
tấn/ha phân chuồng hay phân hữu cơ tương ứng.
Bón hàng năm: Đối với giống nho rượu loại tốt, có năng suất nhỏ hơn
10 tấn/ ha bón 0 - 40 kg/ ha N, 20 - 50 kg/ha P2O5, 60 - 100 kg/ha K2O.
Đối với các vườn nho khác bón 60 - 120 kg/ha N (bón
nhiều hơn nếu có tưới), 20 - 50 kg/ ha P2O5, 100 - 150 kg/ha K2O.
Nhìn chung phân N bón vào cuối thời kỳ ngủ nghỉ và trong thời gian sinh
trưởng; lân và Kali bón lót vào thời kỳ ngủ nghỉ của cây
và ở những vùng khí hậu ẩm ướt và đất nhẹ, có thể bón thúc như phân
đạm.
Bón lên lá cho cây: Các nguyên tố K, Mg, B và Fe có thể được bón lên
lá nếu có biểu hiện thiếu. Một số nguyên tố khác có thể được bón không
chính thức thông qua thuốc trừ nấm, ví dụ: S dùng chống
Oidium; Cu dùng trong thuốc Bordeaux; Mn và Zn trong
Dithiocarbamates dùng chống bệnh mildew.
Từ năm thứ 3 trở đi lượng bón có thể còn tăng, phân chuồng chỉ bón 1 lần/ năm.
Dạng phân bón thích hợp: Nho là cây không đòi hỏi nhiều về mặt này.
Các dạng Kali như Kali sulfate cũng không hơn gì Kali Clorua. Tuy nhiên,
cần chú ý khi đất mặn thì Kali Sulfate tỏ ra tốt hơn,
hoặc khi lượng bón lớn, chẳng hạn 500 - 1000 kg/ ha K2O, thì Kali
Sulfate cũng tốt hơn.
Ở những ruộng nho làm rượu loại tốt, phân hữu cơ có hàm lượng đạm
thấp thường được dùng nhằm không gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng.Trên
thực tế sử dụng phân bón cho nho ở Việt Nam cho thấy, có
sự biến động rất lớn. Trong cùng 1 vùng, việc dùng phân cũng biến
động từ ruộng này sang ruộng khác và từ năm này sang năm khác. Có những
chỗ hoàn toàn không bón phân, lại có chỗ bón với lượng
lớn, thừa thãi so với yêu cầu của cây. Điều này có thể gây ra những
rủi ro của sự ảnh hưởng xấu đến chất lượng sản phẩm do thiếu, thừa hay
không cân đối dinh dưỡng. Cần có sự nghiên cứu tìm ra
cách bón phân hợp lý trên cơ sở hiểu biết đất, nhu cầu của cây cùng
với kết quả phân tích lá nho.
Sử dụng phân NPK
Thời kỳ kiến thiết cơ bản: Cây nho là cây có thời kỳ kiến thiết cơ
bản ngắn. Năm đầu tiên có thể coi như năm KTCB, còn các năm sau cây đã ở
trong thời kỳ kinh doanh. Trước khi trồng nho nhiệm vụ
kiến tạo một môi trường dinh dưỡng thích hợp cho cây nho là rất quan
trọng như đã nói ở trên. Nho cần được bón 30 - 40 tấn phân hữu cơ/ ha
trước khi trồng. Chọn các loại phân thích hợp để bón lót
cho nho như các loại NPK 14-8-6; 18-8-8-6; 19-7-8; 20-10-5; 20-10-10
v.v... Với các loại phân này tính toán để bón lót cho mỗi gốc được 30 -
50g N. Sau đó tiếp tục bón thúc cho nho ở các thời kỳ.
Liều lượng dành cho vườn nho có mật độ > 2000 cây/ha như sau.
• Một tháng sau trồng: Bón mỗi gốc 15 g N.
• Ba tháng sau trồng: Bón mỗi gốc 20g N.
• Năm tháng sau trồng: Bón mỗi gốc 25 g N.
• Bảy tháng sau trồng: Bón mỗi gốc 30 g N.
• Chín tháng sau trồng: Bón mỗi gốc 35 g N.
• Một năm sau trồng: Bón mỗi gốc 40 g N. (lượng phân lân và kali được ăn theo trong phân hỗn hợp NPK)
Mỗi liều phân trên có thể chia bón làm 2 lần, hoặc rải đều trên toàn
hầm nho, tránh bón quá tập trung có thể gây xót rễ. Bón phân phải luôn
kèm theo tưới nước để cây có thể sử dụng được ngay và
tránh gây ra sự tranh chấp nước với cây, vì phân ở nồng độ cao sẽ
giữ nước.
Thời kỳ kinh doanh: Khi cây nho bước sang thời kỳ kinh doanh chọn phân bón ở các thời kỳ như sau.
Sau khi thu hoạch: Mục đích bón lúc này là tiếp tục nuôi bộ lá làm
cơ sở cho sự tích lũy dinh dưỡng để bắt đầu 1 chu kỳ sau. Loại phân đưa
vào phải có tác dụng duy trì bộ lá nhưng không kích
thích ra chồi mới. Chọn các loại phân sau để bón - NPK 11-7-14;
14-7-14, 10-5-10; 15-10-15; 16-6-16; 16-8-16; 17-10-17; 20-15-20 v.v..
Lượng bón được tính toán khoảng 30 g N/gốc (mật độ > 2000
cây/ha).
• Trước khi cắt cành: Thời kỳ này thường là 1-2 tháng sau thu hoạch.
Bón thời kỳ này nhằm chuẩn bị dinh dưỡng sẵn sàng cho cây sau khi đâm
chồi. Chọn các loại phân như NPK 14-8-6; 18-8-8-6;
19-7-8; 20-10-5; 20-10-10 v.v... để bón. Lượng bón được tính toán
khoảng 25 g N/gốc (mật độ > 2000 cây/ ha).
• Khi bắt đầu có trái: Khi có những trái đầu tiên lớn bằng đầu ngón
tay út thì bón. Chọn các loại phân như NPK 11-7-14 hay 20-7-25 và các
loại phân có hàm lượng Kali cao khác để bón. Lượng bón
được tính toán khoảng 40 g N/gốc (mật độ > 2000 cây/ha)
NHO VÀ RƯỢU NHO Ở PHAN RANG
Đã từ lâu, người tiêu dùng không còn lạ
lẫm gì những chùm nho tím sẫm mọng chín được bày bán khá nhiều, ăn rất
ngọt, có mùi thơm phức. Đó là giống nho được trồng ở
thị xã Phan Rang.
Người dân đô thị ở đây tự hào về trái nho của mình nhưng để có nó họ
đã phải vất vả thậm chí cực nhọc muôn phần. Trước năm 1975, một nhà
nông học đã phát hiện ra vùng đất trộn cát này có khả năng
trồng được nho.
Họ đã khuyến khích một vài gia đình trồng thử thứ nho ở miền Prôvăng
(Pháp). Cây nho vẫn cho trái nhưng chất thì lại kém xa nho nguyên gốc.
Hơn nữa, trồng nho so với một số loại cây khác lại
không kinh tế nên việc trồng nho bị gác lại.
Năm 1977, nho lại được trồng nhưng lần này người dân ở đây không
trồng loại nho xanh như trước nữa mà họ tìm đến loại nho màu tím sẫm.
Trong năm đầu của thế kỷ 80, nho tím được trồng nhiều ở Tháp
Chàm trong đó người Chăm ở thôn Mỹ Nghiệp có tới mấy chục gia đình
bỏ mía trồng nho vì hiệu quả kinh tế lúc này cao hơn.
Tuy nhiên trồng nho không phải đơn giản, cái nghề này chỉ khi cầm
chắc được tiền trong tay mới làm ăn được. Nếu cây nho ra hoa rồi mà trời
không ưa thì hoa sẽ rụng, có quả rồi mà không có sương
thì quả non dễ bị nấm không to được. Hoặc có quả rồi mà mưa thì quả
cũng sẽ rụng hết.
Do đó, người dân trồng nho đã tổng kết thành câu: “Nắng sợ mưa, mưa
lại sợ nắng”. Trồng nho nếu không có kinh nghiệm coi như mất vốn bởi có
khi cắt nho chín nhưng sau đó cây lại không ra hoa nữa.
Rồi phải đoán bệnh để bơm thuốc trừ sâu, xong lại phải biết bơm
thuốc vào thời gian nào.
Cây nho ngày nay phát triển ở Phan Rang và thị trường tiêu thụ của
loại cây này ngày càng rộng. Một kilo nho bán tại vườn giá từ 8 – 9
nghìn đồng, nho ghép buộc túm lại cũng phải trên 6000
đ/kg.
Ở Phan Rang – Tháp Chàm có tới trên hai ngàn gia đình trồng nho với
diện tịch trên 54 hécta. Với những giống nho ở trung tâm nghiên cứu cây
nhiệt đới Nha Hố, từ năm 1980 đến nay, Phan Rang rộ lên
phong trào trồng nho và trở thành nguồn thu nhập quan trọng trong
kinh tế gia đình. Hiệu quả kinh tế của cây nho gấp từ 8 đến 10 lần so
với trồng các cây lương thực thực phẩm khác.
Qua nhiều năm canh tác, bà con ở đây đã chọn được hai giống nho quý
có năng suất cao và phẩm chất tốt là nho đỏ và nho tím. Nho đỏ chăm sóc
tót, canh tác đúng kỹ thuật mỗi năm thu hoạch hai vụ
rưỡi với năng suất 30 – 40 tấn/năm/hécta. Nho tím năng suất thấp
hơn, từ 20 đến 25 tấn tuy nhiên dễ trồng dễ chăm sóc kháng bệnh tốt.
Đã có đoàn chuyên gia Tiệp Khắc gồm giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ,
kỹ sự tới là việc với thị xã Phan Rang và tới xem từng vườn nho khảo sát
diện tích đất đai khí hậu và sự phát triển sinh trưởng
của cây nho ở đây. Đoàn chuyên gia đã nhận xét nho trồng ở Phan Rang
có năng suất gấp 3 – 4 lần trồng ở Tiệp Khắc và hứa hẹn viện trợ xây
dựng một nhà máy cất rượu vang nho ở vùng này
Rượu vang nho thương hiệu Ba Mọi, một sản phẩm mới của Ninh Thuận.
Ninh Thuận một tỉnh cực Nam Trung Bộ với gió cát mênh mông, nhưng ẩn
chứa những tiềm năng không phải nơi nào cũng có. Đây là vùng đất của
nho và sản xuất rượu vang, ngoài ra còn là nơi chăn nuôi
cừu số một của Việt
Cây nho vốn là đặc sản của Ninh Thuận, tổng diện tích trồng nho của
tỉnh Ninh Thuận hiện nay khoảng 2.500 ha, tập trung chủ yếu ở huyện Ninh
Phước, Ninh Hải và thành phố Phan Rang – Tháp Chàm,
với nhiều loại giống nho mới năng suất chất lượng cao, sản lượng
hàng năm ổn định từ 60-65 ngàn tấn. Nho Ninh Thuận thường được dùng để
ăn tươi và chế biến rượu nho. Vì vậy việc đầu tư chế biến
các sản phẩm từ nho tại Ninh Thuận cũng là lĩnh vực đang được tỉnh
kêu gọi đầu tư. Một trong những dự án đó là nhà máy sản xuất rượu vang
và các sản phẩm khác từ nho của địa phương. Dự án có quy
mô mỗi năm sản xuất 3 triệu lít rượu vang và 5 ngàn tấn sản phẩm
khác từ nho với tổng vốn đầu tư dự kiến: 35-40 tỷ đồng.
Có thể lấy cơ sở sản xuất nho Ba Mọi để nói về nét độc đáo của cây
nho Ninh Thuận. Hơn hai năm nay, sản phẩm nho sạch mang thương hiệu Ba
Mọi đã nổi tiếng khắp thị trường trong nước. Chủ nhân của
thương hiệu nho Ba Mọi là Nguyễn Văn Mọi, một nông dân chính gốc
miệt vườn, ông đã có trên hai thập kỷ gắn liền với sự thăng trầm của cây
nho Ninh Thuận. Cuối năm 2000, khi giống nho xanh NH01-48
của Trung tâm Nghiên cứu Cây bông Nha Hố đưa ra trình làng được ông
Ba Mọi trồng thử nghiệm ngay 1.000 m2 trên vùng ruộng gò và các nhà khoa
học ở Trung tâm Chuyển giao Tiến bộ kỹ thuật Nông
nghiệp (thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam) giúp đưa
chế phẩm sinh học vào sản xuất nho an toàn, không để lại dư lượng hóa
chất sau thu hoạch. Với 1.000 m2 đất trồng nho ngay trong
vụ đầu, ông thu hoạch được 0,7 tấn. Sau đó tăng lên 1,2 tấn ở vụ thứ
hai, rồi 1,5 tấn ổn định ở vụ thứ ba. Một kg nho xanh NH01-48 bán tại
vườn với giá trên 10.000 đồng/kg, cao gấp hai lần so với
nho đỏ (Red Cartinal). Người trồng nho xanh an toàn có mức lãi trung
bình 7-10 triệu đồng/sào/vụ. Ông Ba Mọi đã nghiên cứu trồng tiếp giống
nho Ngôi sao đỏ (Red Star) trên diện tích 4.000 m2 .
Trái nho Red Star được ông bao bọc bằng một loại giấy đặc biệt để
chống nắng làm rám da, ông cũng đã thành công khi cho ra đời sản phẩm
mới là rượu vang nho địa phương. Đây cũng là một sản phẩm
mới được ông chiết xuất từ giống nho Syraz . Ông đã hoàn thành thủ
tục kiểm nghiệm chất lượng và đăng ký “nhãn hiệu cầu chứng” mang tên
Rượu vang nho Phan Rang. Tương lai cây nho ở vùng đất hạn
Ninh Thuận đang sáng sủa.
CHẾ BIẾN THƯỞNG THỨC VÀ BẢO QUẢN RƯỢU NHO
Rượu vang là tiếng Việt, phiên âm từ chữ vin trong tiếng pháp., nó là rượu nho. Vậy rượu nho là chi?
Office international de la vigne et du vin – Hiệp hội quốc tế nho và
rượu nho định nghĩa: Rượu nho là thức uống chế từ nước nho tươi làm lên
men thành rượu. Hiệp hội này thành lập cũng có ba phần
tư thế kỷ rồi, thoạt tiên chỉ có tám quốc gia sản xuất rượu nho, nay
thì con số đã lên tới bốn chục. Hiệp hội quốc tế đề ra những tiêu chuẩn
căn bản cho tất cả những gì liên quan tới trồng nho
hái nho và chế rượu nho. Hiệp hội không có quyền hạn đích thực để
trừng phạt chuyện vi phạm nghề nghiệp của các thành viên nhưng họ có
quyền cho thế giới cùng nghe
Chế biến rượu nho:
Vào đầu thu, khoảng 100 ngày sau khi nho ra bông, hay trễ hơn chút
xíu ở những vùng làm rượu trắng, tại hầu hết những vườn nho âu châu và
mỹ châu, người ta sửa soạn vụ mùa. Ở một vài xứ, mùa thu
hoạch nho do nhân viên canh nông của chánh phủ quyết định sau khi đo
và thấy lượng đường chứa trong nho đã đủ. Mùa hái nho coi như là mùa
hội hát xướng và vui chơi, đã là nguồn cảm hứng để thi
nhân trước tác. Thiệt ra đây là một công việc nặng nề, phải làm
nhanh dưới sức nóng của mặt trời và lắm khi thiếu thốn nhân lực - do
giới trẻ có khuynh hướng bỏ lên thành thị tìm việc làm nhàn
nhã và lắm tiền hơn.
Trước khi nói về cách chế biến rượu nho, tui xin nhắc sơ rằng rượu
đỏ và rượu hồng chế tạo từ nho đen hay nho sậm màu, còn rượu trắng từ
nho trắng hay nho xanh. Gọi thế theo màu của vỏ, chớ còn
nước nho ép từ thịt nho thì không có màu. Champagne không theo cách
này, nó là hỗn hợp hai phần ba pinot noir và phần ba còn lại chardonnay -
đây cũng là hai loại nho giống dùng trong vùng
Bourgogne. Chặng đường biến chế rượu nho, từ lúc nho trổ hoa cho tới
khi rượu đóng vào chai, vừa dài vừa tỉ mỉ. Dưới tác dụng của men, nước
nho biến thành rượu. Qua các giai đoạn chế biến để nho
từ vườn chạy vào trong chai (de vigne en vin!) thì lên men là giai
đoạn ngó chừng lẹ nhứt, nhưng thiệt nó hổng giản dị mà trái lại phức tạp
vô cùng và đòi hỏi nhiều cẩn trọng. Nhiệt độ phải được
kiểm soát thường xuyên để việc lên men tiến triển ngon lành và liên
tục, vì men rượu chỉ bắt đầu tác dụng ở nhiệt độ 60 –100 độ F (15 –38 độ
C) Dưới 60 hay trên 100 thì sự lên men ngừng lại –
moût là nước nho đang ủ hay đang lên men – Tại các vườn nho lớn tốn
tân người ta có máy móc kỹ thuật để giữ vững nhiệt độ trong khoảng này.
Tại các vườn nho nhỏ người ta theo kinh nghiệm thủ công
và phải thay nhau ngày đêm canh thức
Ông quản rượu:
Phần lớn Quản rượu là những vị có tài có đức được giao phó trọng
trách quán xuyến trông coi các vụ mùa Có vài vị Quản đã đi vào lịch sử
và sống mãi với dân tộc và thời gian (tại xứ sở của họ, dĩ
nhiên) Tên tuổi họ đã tạo cho cái nhãn rượu thêm danh giá. Ở Chateau
d’Yquem chẳng hạn, dòng họ Bureau đã giữ chức vị Quản cha truyền con
nối từ suốt hơn 4 thế kỷ nay, dòng họ Grangerois ‘trị vì’
Chateau Margaux từ 4 thế hệ.
Chúng ta trở lại chuyện hái nho và làm rượu. Những người thợ gặt đặt
nho hái tay trong những thúng hay những cần-xé rồi nhẹ nhàng đưa chúng
vào trong xe để chở về nhà máy. Nho được đưa vào phòng
ủ, chứa trong những bể hay thùng phuy. Tại đây nho được cà dập, làm
rời cuống để nước từ thịt nho chảy ra dễ dàng. Trong rượu trắng, nho đã
cà sau đó được ép ngay để lấy hết phần lớn nước còn sót
lại trong thịt, rồi nước nho (cà và ép) được bơm vào thùng chưá và
làm lên men. Những thùng ni bây giờ thường làm bằng bê-ton hay bằng thép
không rỉ (inoxydable). Trong rượu đỏ, người ta mang vỏ
nho bỏ trở lại chung với nước nho rồi ngâm- cuvage, vỏ nho sẽ làm
nước nho đổi màu, rồi sau đó mới làm lên men . Khi việc lên men hoàn tất
thì dung dịch nước khi ấy có tên là vin de goutte (rượu
nhỉ) Đây là loại rượu thượng hạng- première qualité .
Phần moût còn lại gọi là marc được mang ra ép thêm và vắt nữa. Rượu
của marc là rượu ép, vin de presse, rượu hạng nhì, nếu ăn gian đem pha
với vin de goutte thì rượu thượng hạng sẽ tụt cấp ngay!
Dưới tác dụng của men - men này có ngay ở trong nho, nhưng không đủ,
thế nên người ta phải thêm men ở ngoài vào – đường sẽ biến thành alcool
và carbonic dioxyde – gaz carbonic- nước nho lên men
từ từ . Khoảng 7-12 ngày sau thì hầu như đường trong mout đã hoá hết
thành rượu, chuyện lên men sẽ dừng lại. Độ alcool khi ấy vào khoảng 13
hay hơn – Nếu muốn, người ta có thể làm ngưng tiến
trình lên men sớm hơn một chut để tạo độ alcool thấp hơn, như trong
rượu trắng chẳng hạn, khi ấy nó sẽ có tên là rượu nhẹ – vin blanc doux.
Do khí hậu trục trặc, lắm khi nho chẳng được mùa, lượng
đường chứa trong nho thấp, người ta buộc lòng phải chap rượu. Chap
hay chaptalisation chỉ có nghĩa là thêm đường vào trong moût để làm tăng
độ alcool. Trong mỗi lít nước nho nếu thêm 17 gam đường
thì rượu sẽ tăng thêm một độ. Bá tước kiêm hoá học gia pháp quốc
Chaptal sống thời Napoleon là người đã nghĩ ra phương pháp này. Chuyện
chap rượu là chuyện hợp pháp tại hầu hết các quốc gia, rồi
người ta hổng ngần ngại chap lung tung để làm vui lòng dân chai lọ.
Thế nhưng tại một vài xứ - như Ý, Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha và một vài
vùng của Pháp - vụ ni bị cấm ngặt. Trong tiến trình lên men, mặt thùng
chứa sẽ nổi lên một lớp váng –chapeau- lớp váng ni gồm
có vỏ, có nho và cuống (còn sót) và dĩ nhiên có cả men. Tất cả bị
gaz carbonic, (tạo ra trong phản ứng hóa học) đẩy nổi lên trên. Người ta
phải hoặc phải nhận nó xuống hoặc rạch lớp váng ra rồi
đẩy vào mout trở lại, mục đích là để chuyện lên men tiến triển tốt
do lượng men không thất thoát, nếu là rượu đỏ thì làm nó thêm thấm màu.
Rượu trắng làm nhanh hơn rượu đỏ, rượu trắng không có vỏ
cũng không có cuống. Vỏ cuống và hột nho chứa nhiều tanin, có vị
chát. Tanin giúp cho rượu để được lâu. Đây là lý do tại sao rượu đỏ
thường giữ lâu hơn rượu trắng, nghĩa là nuôi được và phẩm chất
còn nguyên nếu không muốn nói là tăng thêm.
- ở những vườn rượu Bourgogne như Montrachet, ở Jura và ở Loire, lắm
chai rượu trắng rất thọ, rượu trắng của vườn d’Yquem có chai thọ cả
hàng trăm tuổi!. Rượu hồng nằm giữa rượu trắng và rượu
đỏ.. Làm rươu hồng thì có nhiều cách Rượu hồng có thể làm giống như
rượu đỏ nhưng cho ít vỏ vào thôi, còn bằng không khi độ màu đã tới thì
ông Quản sai vớt hết vỏ ra (nhưng nhớ chừa men lại) Cũng
có khi moût - nước nho cà ép - đã đủ màu, vì vưong màu của vỏ, thì
người ta hổng cần làm màn ngâm vỏ nữa, chỉ làm như rượu trắng thôi. Cũng
như rượu trắng, tùy sec hay doux mà thời gian lên men
của rượu hồng sẽ dài hay ngắn - nghĩa là nặng hay nhẹ tính theo độ
alcool- trong rượu nhẹ, độ alcool thấp và còn tí đường nên rượu có vị
dịu . Sec khi có độ alcool cao hơn. Rượu đỏ, ta nói nó gắt
hơn, corsé hơn rượu trắng vì nó thường sec hơn. Rượu khi đóng vào
chai thì trên nguyên tắc việc lên men sẽ ngừng lại - nhưng rượu vẫn sống
và tiếp tục trưởng thành!
Trong vài loại rượu ngọt (vin blanc liquoreux) nó hãm không cho
đường trong rượu đã đóng chai tiếp tục lên men lần thứ nhì. Lên men lần
nữa thì thường là hỏng kiểu, trừ champagne. Champagne được
lên men lần thứ nhì trong chai và gaz carbonic bị nhốt lại ở tạo áp
suất cao, rồi chai champagne khi mở mới kêu cái bóc, sủi bọt và trào ra.
Vì có tánh sát trùng nên gaz de soufre coi bộ độc,
nhứt là khi dùng quá nhiều. Các nhà rượu học – oenologues - lừng
danh ưa phương pháp tự nhiên
Nếu cứ ép marc tiếp thêm rồi sau đó đem tinh chất thì sẽ làm ra một
loại rượu có tên eau-de-vie (de-marc). Cognac và Armagnac nằm trong nhóm
này. Chuyện chế tạo hai cái ‘ngac’ này được kiểm soát
rất kỹ, Armagnac chỉ được tinh chế một lần, Cognac tinh chế hai lần.
Vì tinh chế nên nồng độ rượu của chúng rất cao và không có màu. Thùng
phuy chứa whisky được flambé trước (nghĩa là đốt nhanh
phía trong và làm vách thùng đổi màu) nên whisky có màu hổ phách.
Thùng chứa cognac thì không flambé nên cognac cứ nhàn nhạt một màu
trong-trong buồn tẻ ! Thành ra để cognac thay áo thành tình
nhân nồng nàn đẹp đẽ, người ta buộc lòng phải trộn vào một chút
caramel, - trong một vài loại cognac hảo hạng người ta chỉ cho caramel
sơ sài mục đích là giữ tiếng. Thùng chưá cognac làm bằng gỗ
sồi Limousin nên cognac có hương thơm riêng biệt rất bắt mũi.
Rượu để dành – vin de garde:
Rượu để dành là rượu để lâu chẳng những không đổi mà còn tăng thêm
phẩm chất. Phẩm chất còn nguyên là rượu giữ được, phẩm chất tăng thêm
mới đích thị là rượu để dành. Những chai rượu mới ra lò,
như con gái mới lớn, lắm khi còn chanh cốm, nếu để chúng trong những
điều kiện thích hợp thì nó sẽ trưởng thành sẽ dậy sẽ tới và sẽ chín
muồi. Thông thường rượu để dành là rượu ít nhứt cũng phải
11-12 độ hay hơn nữa, chứa nhiều tanin và có khả năng ... càng già
càng dẻo càng dai. Đây là một chuỗi những bí mật mà ngay cả những nhà
hoá học và rượu học cũng đã chưa tìm ra và giải thích nổi.
Người ta nói do cách chế rượu mà rượu có để được hay không. Rượu chế
tạo lẹ thì phải uống lẹ, để dành là hoá dấm liền. Phần lớn Beaujolais
là rượu uống liền, khi nó hãy còn thơm mùi hoa trái.
Cũng có vài loại Beaujolais ngoại lệ như Morgon, Chirouble
Moulin-à-vent vv.. có thể giữ được lâu, nhưng chưa chắc đã có khả năng
để dành. Vì đất ở Beaujolais cấu tạo chính bằng đá hoa cương, hợp
với nho gamay nên hầu như đây là giống nho chính của vùng.
Rượu nho thông thường sau khi lên men xong thì được giữ trong những
thùng gỗ trong hầm chứa chờ cho dịu lại, cho dậy rồi mới được đóng chai
và mang ra phố .Sau này người ta tung ra một loại
Beaujolais có tên Beaujolais primeur hay Beaujolais nouveau. Đây là
loại rượu mang thẳng từ máy ép ra thị trường ngay khi nó còn đang lên
men dở dang, để người tiêu thụ có thể uống nó sớm khi
việc lên men vừa kết thúc. Mỗi năm theo thông lệ, vào tuần lễ thứ ba
trong tháng 11, cứ tới đúng nửa đêm ngày thứ năm là Beaujolais primeur
được bán thẳng từ các kho rượu cho dân chai lọ uống cầm
hơi. Beaujolais primeur nhạt màu và còn giữ hương thơm trinh nữ của
hoa trái, cho gu êm dịu nếu uống ở 10-14 độ.
Rượu trắng khó để dành. Trước hết nó được làm lên men liền mà không
qua giai đoạn cuvage, do đó nó chưá rất ít tanin, chất này cần thiết cho
tuổi thọ của rượu. Thành ra hầu hết rượu trắng nếu có
để được thì cũng chưa chắc có ‘chín muồi’ thêm như là rượu đỏ.
Nhưng ... các ông đều có nghề riêng và có trách nhiệm nặng nề với
chủ. Ông không chỉ chăm sóc những vò rượu sắp đóng chai chạy ra thị
trường, ông còn chăm sóc (dám kỹ hơn) những thùng rượu còn
đang thiêm thiếp ngủ ngon trong hầm rượu !
Một chai rượu gọi là ngon khi uống nó người ta thấy sảng khoái, bất
kể màu sắc và giá tiền. Rượu và món ăn gọi là thích hợp khi nó làm tăng
hương vị lẫn cho nhau.
Không có luật lệ trong việc chọn rượu cho thực phẩm. Thông thường
rượu trắng đi với đồ biển. Tôm cá ốc sò... thường chứa iode, Nhưng ai
cấm bạn dùng rượu đỏ nếu bạn thích thế. Người ta đã cho
rằng đồ Việt chỉ nên uống với la de lạnh, cùng lắm là với vài loại
rượu Alsace (Gewurztraminer hay Riesling) vì loại này ‘hăng’ hơn. Đồ ăn
Việt giết không thương tiếc những loại rượu khác do nó
chứa nhiều gia vị nồng và nặng mùi trong cách nấu nướng (như nước
mắm chẳng hạn ...)
nếu phải mua thì mua rượu hợp với hầu bao, loại vin de table - nghĩa
là rượu để bàn uống thường nhựt - cho lòng bớt đau xót. Một chai rượu
có cái rapport qualité/prix cao, xứng đáng hơn là một
chai rượu có điểm nhưng nặng giá tiền.
Rượu vang đỏ:
Các nhà nghiên cứu, chẳng hạn như Marty Mayo, đã so sánh khẩu phần
dinh dưỡng ở các quốc gia phương Tây và đã phát hiện ra rằng mặc dù
người Pháp có xu hướng ăn nhiều chất béo động vật hơn, nhưng
tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở người Pháp lại khá thấp. Họ gọi hiện tượng
này là nghịch lýPháp.Nhiều người cho rằng nguyên nhân là người Pháp
tiêu thụ nhiều rượu vang đỏ hơn. Các chất có trong quả
nho đã làm nồng độ cholesterol trong cơ thể thấp hơn và vì thế làm
chậm lại quá trình tích lũy trong động mạch. Các hợp chất như
resveratrol (chất chống ôxi hóa polyphenol) đã được tìm thấy có
trong nho và chúng có liên quan đến việc phòng chống ung thư, các
bệnh tim mạch, làm suy hóa các bệnh liên quan đến thần kinh và các bệnh
tật khác. Các bác sĩ không khuyến cáo dùng nhiều rượu
vang đỏ, nhưng việc sử dụng từ 3-4 cốc trong một tuần là có lợi cho
sức khỏe và được khuyến khích [cần chú thích].
Mặc dù nhiều người nhận thức một cách
sai lầm rằng các loại nho đỏ là có lợi hơn cho sức khỏe, trên thực tế
tất cả các loại nho có màu khác cũng đem lại các lợi ích
đáng kể. Tuy nhiên, rượu vang đỏ đem lại một số lợi ích cho sức khỏe
mà không thấy có ở rượu vang trắng, do nhiều chất có lợi cho sức khỏe
được tìm thấy ở lớp vỏ quả nho, mà chỉ có vang đỏ mới
được lên men bằng cả vỏ quả.
Một nhận thức sai lầm khác là người ta cho rằng rượu vang trắng được
sản xuất từ các giống nho có vỏ màu xanh. Trên thực tế, nó có thể được
sản xuất từ bất kỳ giống nho nào. Vang đỏ được sản xuất
từ các giống nho vỏ đỏ, nhưng sự tạo màu là kết quả của việc thêm cả
vỏ vào trong quá trình ngâm ủ (lên men).
THỔ CẨM MỸ NGHIỆP, DI SẢN ĐỘC ĐÁO CỦA DÂN TỘC CHĂM
Tại làng dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp (thị
trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận) hiện có những nghệ
nhân già “đặc biệt” nắm giữ “bí quyết” của những công đoạn
cầu kỳ, công phu trong việc phối mầu, tạo hoa văn độc đáo của kỹ
thuật dệt thổ cẩm Chăm. Đây cũng là làng nghề hiện đứng đầu trong cả
nước với 95% người dân theo nghề truyền thống này.
Leng keng những chiếc hoa đồng:
Những chiếc hoa đồng có dáng tựa bầu rượu rỗng dốc ngược, được treo
hai bên khung dệt, giúp người thợ đánh go tạo hoa văn khi dệt thổ cẩm.
Mỗi khung dệt thường có bảy đôi treo lủng lẳng và chỉ có
khung dài mới sử dụng hoa đồng để đánh go, còn với khung dệt ngắn
người thợ đánh go bằng những thanh tre.
Có dạo người ta thay thế hoa đồng bằng những hòn đá san hô hay một
số vật dụng khác. Nhưng với gia đình làm nghề lâu năm của làng dệt Mỹ
Nghiệp thì những chiếc hoa đồng được xem là vật dụng quý,
được giữ gìn cẩn thận để có thể lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Càng sử dụng lâu năm những chiếc hoa đồng càng ánh lên mầu đỏ au lóng
lánh. Thật thú vị, những tiếng khua leng keng của chúng
khi người thợ dệt đánh go tạo nên những âm thanh là lạ, vui tai, tựa
như những lời chào của gia chủ khi khách vừa bước chân vào ngõ.
Đến cận mùa lễ hội Ka-tê, làng dệt Mỹ Nghiệp lại rộn ràng hơn với
những tiếng leng keng từ những chiếc hoa đồng. Các cô gái Chăm đang
chuẩn bị vào lễ hội Ka-tê mà một trong những nội dung hấp dẫn
nhất là thi dệt thổ cẩm.
Hoa tay những người thợ :
Năm nay đã 69 tuổi, nhưng bà Phú Thị Mỡ vẫn còn ngồi bên khung dệt,
chuyện trò cùng khách mà tay vẫn không ngừng đưa thoi, dập vải, kéo go,
chân đạp ngựa nhịp nhàng, thoăn thoắt. Được bà rồi mẹ
truyền nghề từ bé, bà Mỡ đã có hơn nửa thế kỷ gắn bó với khung dệt
thổ cẩm, nghề đã giúp bà nuôi tám con ăn học nên người, thành bác sĩ, kỹ
sư làm việc tại TX Phan Rang và TP Hồ Chí Minh.
Theo lời nghệ nhân lớn tuổi này, bây giờ các nguyên liệu từ sợi chỉ
cho đến phẩm nhuộm cho nghề dệt thổ cẩm đều có trên thị trường nên đã
giúp người thợ dệt giảm được nhiều phần vất vả của thời
xa xưa như: tách hạt lấy bông, cuộn, ngâm đập, nhuộm, hồ, chái, đánh
ống rất vất vả. Ngay cả chuyện tìm mầu nhuộm thời xưa cũng là chuyện
rất công phu. Muốn có mầu đen làm nền, phải nhuộm tẩm thổ
cẩm bằng lá chùm bầu, sau đó ngâm trong bùn non bảy ngày đêm liên
tục; muốn có mầu đỏ phải đi tìm mủ cây cánh kiến ở rừng, còn mầu xanh
thì phải chọn lá, vỏ cây chàm...
Theo nghệ nhân Phú Thị Mỡ, dệt thổ cẩm khó nhất là khâu phối mầu. Để
tạo nên những hoa văn tinh xảo, độc đáo, thợ dệt phải có hoa tay, óc
thẩm mỹ cùng sự am tường về mầu sắc để tạo nên sự hoài
hòa, cân đối cho tấm vải.
Trong khâu dập vải cũng cần làm đều tay, nếu không vải sẽ không căng
mịn và khó nổi bật hoa văn. Từ bàn tay khéo léo của người thợ dệt,
những sợi chỉ nhỏ li ti dẫn biến thành từng mảnh thổ cẩm có
hồn với mầu sắc rực rỡ, hoa văn tinh xảo nổi bật.
Ngày nay người thợ dệt còn có thêm điều kiện thả hồn bay bổng trong
sáng tạo nhờ nguồn chỉ mầu phong phú. Tiếp bước nghệ nhân Phú Thị Mỡ,
làng dệt Mỹ Nghiệp hiện có nhiều thợ dệt trẻ hơn nhưng
rất lành nghề trong phối mầu, thiết kế hoa văn như bà Thạng, bà
Tình, chị Thuận Thị Trụ...
Yêu nghề truyền thống, chị Thuận Thị Trụ đã cất công sưu tầm hơn 30
mẫu hoa văn cổ để rồi từ đó cách điệu thêm hơn 50 hoa văn khác, góp phần
đa dạng hóa về mẫu mã và nâng tầm cho mảnh thổ cẩm
truyền thống Mỹ Nghiệp.
Có nhiều thợ lâu năm, lành nghề nên Mỹ Nghiệp hiện là làng đứng đầu
cả nước trong nghề dệt thổ cẩm với 95% dân số sống bằng nghề này. Hiện
họ sử dụng hai loại khung dệt: khung ngắn dệt tấm (khổ
0,9m x 3,4m) dùng để làm khăn, drap, may quần áo; khung dài dệt dây (
30cm x 120cm) dùng làm dây đeo, khăn khổ nhỏ và may đồ thủ công mỹ nghệ
như: ví (bóp), túi xách. Mỗi người thợ trung bình dệt
khoảng 10m/ngày với khung dài và mất 2-3 ngày tạo nên một tấm ở
khung ngắn, thu nhập bình quân trên dưới 500.000đồng/tháng.
Trong năm năm trở lại đây, chính sách hỗ trợ vốn của nhà nước đã
giúp nhiều người dân làng Mỹ Nghiệp sắm thêm khung dệt để phát triển
nghề, có thu nhập ổn định hơn.
Một người thợ đặc biệt:
Về thăm làng dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp, chúng tôi có dịp làm quen người
thợ dệt "đặc biệt": Hán Thị Sum - 65 tuổi, cũng là người có hơn nửa thế
kỷ ngồi bên khung dệt thổ cẩm. Gọi bà là người thợ dệt
đặc biệt vì sản phẩm của bà là lan-thăm, bành-chí, thăm - toát,
những món không thể thiếu khi tiễn "người về quê" (chết) theo nghi lễ,
phong tục của người Chăm. Khi có người thân qua đời, ai cũng
tìm đến người thợ dệt này.
Bà Sum nói: "Không ai làm giàu từ việc này chú ơi, nhưng đây là nghề
của đời bà, đời mẹ để làm nên tôi theo. Tôi cũng tự dệt cho mình những
lăn-thăm để phòng hậu sự sau này, đỡ phải khổ cho con
cháu".
Nếu tính từ đời bà, đời mẹ, gia đình bà Sum có gần trăm năm chuyên
làm trang phục để phục vụ tang chế. Vì thế, dù ngôi nhà tuềnh toàng của
bà nằm khuất sâu trong con ngõ nhỏ vẫn được nhiều người
dân các làng Chăm biết đến, trong đó có những người tận ngoài Phan
Rang, Phan Rí, Nha Trang.
Những tấm thổ cẩm đến tận trời Âu:
Năm 1992 được xem là mốc hồi sinh của nghề dệt thổ cẩm làng Mỹ
Nghiệp, khi cơ sở dệt thổ cẩm Chăm Inrahani của chị Thuận Thị Trụ được
thành lập, hợp tác với các Công ty may mặc ở TP Hồ Chí Minh
tìm được lối thoát cho hàng thổ cẩm Chăm. Không dừng lại ở sản phẩm
thô, cơ sở này đã chế tác ra những mẫu mã như túi xách, ví, ba lô bằng
vải thổ cẩm để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu đi Nhật
Bản, Đức, Pháp, Mỹ, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động và góp
phần thúc đẩy làng nghề phát triển.
LÀNG GỐM CHĂM BÀU TRÚC
Một trong những điểm đến hấp dẫn du khách khi đến tham quan Ninh Thuận là làng gốm Chăm Bầu Trúc.
Không chỉ là làng gốm truyền thống nổi tiếng của người Chăm, làng
gốm Bầu Trúc còn mang trong mình nhiều nét đẹp bí ẩn của nghệ thuật kiến
trúc, tạo hình và văn hóa dân gian của người Chăm
xưa...
Nép mình bên bờ con sông Dinh hiền hòa, làng gốm Chăm Bầu Trúc
(thuộc huyện Ninh Phước, Ninh Thuận) như một bức tranh yên bình với
những mái nhà tranh mộc mạc hòa quyện với màu xanh của cây cỏ,
đất trời. Mặc dù phần lớn người dân hiện nay đều mưu sinh từ thửa
ruộng, mảnh vườn... nhưng vẫn không quên nghề làm gốm mà tổ tiên truyền
lại. Theo tài liệu của ngành khảo cổ học, nghề làm gốm
của người Chăm có cách đây từ 3.500 - 4.000 năm. Người Chăm gọi nghề
làm gốm là nghề làm nồi với vật liệu chính là đất - tượng trưng cho Đất
Mẹ (mẫu hệ). Mọi công đoạn chế tác nồi đều làm bằng
tay (thể hiện sự tôn kính).
Nét độc đáo của làng gốm Bầu Trúc chính là 5 công đoạn chế tác ra
sản phẩm gốm vẫn được duy trì, kế thừa và phát huy cho đến ngày nay.
Theo một vài nghệ nhân lớn tuổi của làng Bầu Trúc, sản phẩm
gốm của Bầu Trúc nổi tiếng có lẽ nhờ thổ nhưỡng của Bầu Trúc. Từ
đất, qua nghệ thuật ủ đất, pha đất với cát... rồi sự sáng tạo từ đôi bàn
tay khéo léo của các nghệ nhân đã tạo nên những sản phẩm
gốm vừa độc đáo, vừa nghệ thuật. Đến với làng gốm Bầu Trúc, du khách
sẽ được chiêm ngưỡng một công đoạn chế tác sản phẩm đất thật kỳ lạ.
Không như những làng nghề gốm của người Việt, người Chăm
cho sản phẩm đứng yên trên một chiếc đế... rồi dùng đôi tay khéo léo
và đôi chân nhịp nhàng để vừa đi xung quanh vừa tạo dáng cho sản phẩm
gốm.
Từ những sản phẩm truyền thống như nồi, lọ, bình, chậu, chén... làng
gốm Bầu Trúc hôm nay còn tạo ra những sản phẩm vừa hấp dẫn về hình
dáng, vừa tao nhã về công dụng và nghệ thuật về trang trí.
Kế thừa những tinh hoa của nghệ thuật tạo hình, nét đặc trưng của
nền văn hóa của tổ tiên... nghệ nhân làng gốm Bầu Trúc đã biết tạo ra
những sản phẩm gốm không chỉ phục vụ cho cuộc sống đời
thường mà còn tôn vinh giá trị văn hóa độc đáo của dân tộc mình. Đó
là những chiếc bình tựa Vũ nữ Apsara, những khung cảnh tế lễ khắc họa
trên vại, trên nồi, hay khuôn mặt những vị thần linh chạm
khắc trên sản phẩm như làm tăng thêm nét huyền bí cho đồ gốm Chăm
Bầu Trúc hôm nay.
Ninh Thuận đang trên đường phấn đấu trở thành một trung tâm du lịch
lớn, do vậy trong những đầu tư để nâng cấp và bảo tồn các giá trị văn
hóa phục vụ du lịch, làng gốm Bầu Trúc đã nhận được sự
quan tâm đặc biệt vì nét độc đáo từ các sản phẩm gốm. Đã có nhiều
tour du lịch đến Ninh Thuận tìm hiểu nghệ thuật gốm Chăm tại làng gốm
Bầu Trúc. Và tại đây, du khách không chỉ bị lôi cuốn bởi
hình ảnh những nghệ nhân xinh đẹp đang biểu diễn nghệ thuật làm gốm
Chăm độc đáo, mà còn khám phá, thưởng lãm và mua sắm những sản phẩm gốm
Chăm kỳ lạ như ché, lọ cắm hoa, hũ, bình, bầu rượu, đèn
ngủ, tượng các vị thần linh... với nhiều kích cỡ, hình dáng, công
dụng khác nhau.
Làng Bầu Trúc là một trong hai làng gốm cổ xưa nhất ở Đông Nam Á nằm
cách thị xã Phan Rang -Tháp Chàm 10km về hướng Nam. Đây là một làng nhỏ
có hơn 400 hộ trong đó 85% hộ làm nghề gốm truyền
thống. Người trong làng kể rằng chính Pô klong Chan là người đã
truyền nghề, ông là một trong những vị tổ sư của nghề gốm từ thời xa
xưa.
Người dân ở Bầu Trúc đã dùng đôi bàn tay khéo léo của mình, những
vòng tre và những vỏ sò để tạo ra những tác phẩm vô giá. Thật đáng ngạc
nhiên trong khi những làng nghề gốm khác đã đổi sang dùng
bàn xoay như một công cụ thiết yếu, thì trái lại các nghệ nhân Chăm
vẫn dựa vào đôi bàn tay tài năng của mình và những công cụ thô sơ. Để
tạo ra một sản phẩm gốm, một nghệ nhân Chăm chỉ cần dùng
một cái đe ( không phải vòng xoay ) và các công cụ thô sơ khác cùng
với đất tơi; sau đó dùng tay để nặn những mẫu đất sét thành những tác
phẩm mà họ muốn. Bằng những thao tác khéo léo và các
tuyệt phẩm đã được hình thành.
Vật liệu dùng để tạo ra một sản phẩm gốm thật sự ở Bầu Trúc là một
loại đất sét đặc biệt. Loại đất sét này được lấy từ bờ sông Quao, khi
nung rất dẻo và bền. Kỹ năng trộn cát với đất sét cũng rất
khác biệt. Lượng cát được trộn vào vật liệu còn phụ thuộc vào công
dụng và kích thước của từng loại gốm. Vì thế nên gốm Bầu Trúc hoàn toàn
khác so với những nơi khác. Chẳng hạn, lu đựng nước được
làm ở Bầu Trúc luôn được người dân ở những vùng khô và nắng ưa
chuộng bởi vì nhiệt độ của nước trong lu luôn luôn thấp hơn so với bên
ngoài nên nước bao giờ cũng mát hơn.
Những năm gần đây bước vào nền kinh tế thị trường, nhiều làng gốm
truyền thống bị chao đảo, có làng không còn giữ được nghề này nữa, nhưng
ở làng Bầu Trúc đa số các hộ Chăm vẫn còn làm nghề gốm,
họ xem đó là nhu cầu sản xuất chính của gia đình, mặc dù giá của sản
phẩm làm ra rất thấp. Để khuyến khích làng nghề cũng như ngành gốm
truyền thống lâu đời của nó, mong rằng chính quyền địa
phương cần quan tâm hơn nữa để làng nghề này được lưu truyền mãi và
ngày càng phát triển.
Các công đoạn tạo ra sản phẩm gốm:
Chuẩn bị đất làm gốm:
Đất sét được lấy từ ruộng, đập thành những cục nhỏ, phơi khô, loại
bỏ những tạp chất rồi ngâm nước trong cái hố đất đã đào sẵn.Cát cũng
được sàn lọc kỹ và lượng cát pha cũng phải tuỳ thuộc vào
hình dạng và kích thước của sản phẩm gốm định làm.
Đầu tiên dùng chân để nhồi đất và cát mịn, sau đó cuộn thành từng lọn hình trụ và được phủ kín bằng tấm vải để ủ qua đêm.
Người thợ gốm còn phải nhồi và lăn lại đất bằng tay nhiều lần, rồi
vo tròn thành các cục đặt lên hòn kê để nặn thành sản phẩm.
Kỹ thuật tạo dáng gốm: Có 4 công đoạn sau:Nặn hình: Tạo dáng gốm cơ bản ban đầu, sau đó nối những “lọn đất” vào miệng gốm, dùng “vòng quơ” chải quanh thanh
gốm.
Chà láng gốm: dùng “vải cuộn” thấm nước, quấn vào tay chà láng thân gốm và tạo hình miệng.
Trang trí hoa văn: Dùng que cây, vỏ sò, hoa
thực vật... để tạo hoa văn trên gốm. Hoa văn chủ yếu là hình răng cưa,
khắc vạch, sóng nước, hoa văn thực vật, vỏ sò... họ còn
dùng màu thực vật để nhuộm áo gốm.
Tu sửa gốm: Gốm nặn đem phơi nơi râm mát, hơi khô dùng “vòng quơ ” nhỏ để cạo mỏng thân và nông đáy gốm.
Nung gốm:
Gốm Bầu Trúc được nung ngoài trời (lộ thiên) và trước khi nung phải phơi khô một ngày.
Vật liệu dùng để nung gốm là củi, phân trâu bò khô, rơm rạ, trấu...
Củi được xếp thành hình chữ nhật (4mx3m) dày khoảng 0,2m-0,3m và
trên đó người ta xếp úp 2-3 lớp gốm, phía dưới xếp những sản phẩm lớn.
Tiếp đó toàn bộ phủ một lớp rơm rạ dày khoảng 0,2m và trên
là một lớp trấu mỏng.
Người thợ gốm Bầu Trúc chỉ đốt lò vào buổi chiều ít gió hoặc gió nhẹ
và đốt theo chiều ngược gió. Thời gian nung khoảng 2-3 giờ đồng hồ.
Theo kiểu dáng và chức năng sử dụng có thể chia gốm Bầu Trúc thành 4 loại:
Loại nồi lớn: loại này có kích thước lớn dùng để nấu ăn cho nhiều
người, đáy tròn, miệng hẹp khum thấp, thân tròn và phình rộng.
Loại nồi niêu nhỏ, trã: dùng nấu nướng hàng ngày, miệng rộng loe
hoặc hơi loe, cổ ngắn, thân hơi phình rộng ở giữa và đáy tròn.
Loại lu, thạp, khương: thường là các đồ đựng có kích thước lớn, đáy
hơi tròn, miệng đứng hoặc khum, cổ đứng vai xuôi và thân tròn.
Loại nồi thấp (chõ), ấm nấu nước, lò (than,củi), loại này có quai, chân đế, miệng khum rộng đáy hơi bằng.
Mot so dia chi dich vu can thiet cho nhung ai chua tung den!!
Dịch vụ
Du lịch Ninh Thuận còn là dịp để bạn tìm đến những dịch vụ hoàn hảo
nhất. Xin bạn đừng bỏ qua những địa chỉ đặc biệt mà khi đến đó, mọi sự
kỳ diệu đều có thể xảy ra.
KHU VUI CHƠI GIẢI TRÍ
Đến với Ninh Thuận, bạn sẽ không quá khó khăn để tìm cho mình một
nơi vui chơi, giải trí lành mạnh. Tuy nhiên, nếu bạn là khách từ phương
xa đến thì những địa điểm lý tưởng để bạn cảm nhận và
khám phá những điều thú vị