Thứ Ba, 16 tháng 12, 2014

Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam

                                    Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam


I.                  Giới thiệu chung và lịch sử hình thành bảo tàng:

1.     Giới thiệu chung :

Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam được thành lập ngày 17/7/1956, tại địa chỉ số 28A đường Điện Biên Phủ - quận Ba Đình – thành phố Hà Nội. Bảo tàng nằm cạnh Khu di tích Hoàng thành Thăng Long Hà Nội, cách Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh 600 mét về phía Tây, đối diện công viên và tượng đài V.Lê-nin.
Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam là một trong 6 bảo tàng quốc gia và là bảo tàng đầu hệ của hệ thống bảo tàng quân đội. Bảo tàng hiện đang trưng bày và lưu giữ gần 16 vạn hiện vật, trong đó có nhiều hiện vật quý, đặc biệt là 2 bảo vật quốc gia (máy bay MIC21 số hiệu 5121 tham gia chiến đấu trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” tháng 12 năm 1972 và xe tăng T54B số hiệu 843 tham gia đánh chiếm Dinh Tổng thống chính quyền Sài Gòn sáng ngày 30/4/1975).
Hệ thống trưng bày gồm có: Trưng bày theo tiến trình lịch sử từ thời Hùng Vương – An Dương Vương đến ngày nay; trưng bày các chuyên đề mẹ Việt Nam anh hùng, Thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến và vũ khí thô sơ tự tạo trong 30 năm chiến tranh  giải phóng; trưng bày ngoài trời. Hệ thống trưng bày với hàng nghìn hiện vật (đặc biệt là hiện vật khối lớn trưng bày ngoài trời), hình ảnh, tài liệu khoa học bổ trợ, phim tư liệu, sa bàn phản ánh có hệ thống lịch sử quân sự Việt Nam qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhất là trong thời đại Hồ Chí Minh với hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Trong khuôn viên Bảo tàng còn có di tích Cột cờ Hà Nội, đây là di tích kiến trúc cổ độc đáo, đã được xếp hạng di tích kiến trúc lịch sử quốc gia năm 1990.
Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam là điểm đến hấp dẫn đối với khách tham quan trong và ngoài nước mỗi khi đến Thủ đô Hà Nội.

2.     Lịch sử hình thành và phát triển bảo tàng :
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước VNDCCH ra đời. Trong muôn vàn khó khăn của một nhà nước mới thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn quan tâm đến việc khôi phục bảo vệ các di tích lịch sử, văn hóa và nghệ thuật của dân tộc. Ngày 23/11/1945, Người đã ký ban hành sắc lệnh số 65/SL-TN về bảo tồn di sản văn hóa. Đây là sắc lệnh đầu tiên về bảo tồn di sản văn hoá dân tộc.
Thực hiện sắc lệnh này, trong kháng chiến chống Pháp, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chú trọng thu thập, lưu giữ các tài liệu, hình ảnh, hiện vật phản ánh cuộc kháng chiến của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm mục đích phục vụ sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Trên cơ sở những hình ảnh, hiện vật thu thập được, nhiều cuộc triển lãm về thành tích chiến đấu và phục vụ chiến đấu được tổ chức tại căn cứ địa Việt Bắc đến chiến trường Nam bộ. 
Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết ngày 21/7/1954, miền Bắc được giải phóng, song miền Nam còn tạm thời do đối phương kiểm soát. Quân đội nhân dân Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng, từng bước tiến lên chính quy, hiện đại để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam. Nhằm phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, phát huy bản chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, cuối năm 1954, Tổng Quân ủy đã có chủ trương xây dựng Bảo tàng Quân đội.
Thực hiện chủ trưởng của Tổng Quân ủy, Tổng cục Chính trị chỉ thị cho các đơn vị tập hợp tài liệu, hiện vật của các quân khu, binh chủng, sư đoàn trong toàn quân làm “vốn” ban đầu để xây dựng Bảo tàng Quân đội và nhà truyền thống các đơn vị.
Với tài liệu, hiện vật sưu tầm được, hàng chục cuộc triển lãm được tổ chức ở Trung ương, các địa phương và các đơn vị. Nổi bật là hai cuộc triển lãm tại Hà Nội nhân dịp chào mừng Trung ương Đảng, Bác Hồ trở lại Thủ đô ngày 1/1/1955 và chào mừng kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9/1955. Sau hai cuộc triển lãm, hàng nghìn phim, ảnh, hiện vật được tập trung về kho của Cục Tuyên huấn làm cơ sở ban đầu quan trọng để xây dựng Bảo tàng Quân đội.
Đầu năm 1956, Đề án xây dựng Bảo tàng Quân đội được Tổng Quân ủy thông qua.
Để thực hiện Đề án này, ngày 17/7/1956, Tổng cục Chính trị ra Quyết định số 14/QĐ do đồng chí Lê Liêm, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị ký thành lập Ban Xây dựng Bảo tàng Quân đội trực thuộc Cục Tuyên huấn.
Ngày 17/7/1956 trở thành ngày truyền thống của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.
Từ Ban Xây dựng Bảo tàng Quân đội với quân số 14 người (1956), được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Tổng cục Chính trị, sự giúp đỡ của các đơn vị trong toàn quân cùng sự nỗ lực, cố gắng của các cán bộ bảo tàng, sau hơn 3 năm tích cực nghiên cứu tư liệu lịch sử, sưu tầm hiện vật, tổ chức từng bước trưng bày, ngày 21/12/1959 Bảo tàng mở cửa phục vụ khách tham quan nhân kỷ niệm 15 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1959).
Cũng vào thời gian này, Ban xây dựng Bảo tàng Quân đội được đổi tên thành Phòng Bảo tàng Quân đội trực thuộc cục Tuyên huấn. Nhiệm vụ chính của Bảo tàng là phục vụ khách tham quan, tu sửa và bảo vệ hiện vật trưng bày.
Ngày 15/5/1964, Phòng Bảo tàng Quân đội được đổi tên thành Viện Bảo tàng Quân đội trực thuộc Tổng cục Chính trị với nhiệm vụ: Nghiên cứu, sưu tầm hiện vật và tuyên truyền giáo dục truyền thống, đồng thời tham mưu giúp Tổng cục Chính trị chỉ đạo hoạt động bảo tàng, nhà truyền thống toàn quân.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra ngày càng ác liệt, không những ở chiến trường miền Nam mà đế quốc Mỹ đã leo thang chiến tranh ra cả miền Bắc, do vậy tổ chức biên chế, chức năng nhiệm vụ và hoạt động của Viện Bảo tàng Quân đội cũng điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện chiến tranh. Hiện vật được Bảo tàng sơ tán cất giấu về các địa phương như Hà Tây (cũ), Phú Thọ, Thái Nguyên. Công tác trưng bày triển lãm tổ chức tại Bảo tàng và lưu động về các địa phương nhân các sự kiện chiến thắng lớn của quân dân ta trên 2 miền Nam Bắc. Công tác tuyên truyền vẫn được duy trì đảm bảo cho nhân dân vào tham quan Bảo tàng khi miền Bắc không bị bom Mỹ đánh phá. Trong thời kỳ này, công tác sưu tầm được quan tâm và thu được nhiều kết quả, hàng vạn hiện vật đã được các đoàn công tác của Bảo tàng đi vào các chiến trường, sưu tầm hoặc được các đoàn cán bộ chiến đấu ở miền Nam mang ra hiến tặng.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, cả nước bước vào thời mới thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tổ chức, biên chế và nhiệm vụ của Viện Bảo tàng có nhiều thay đổi, một số cán bộ chuyển ngành, chuyển công tác và phục viên. Nhiệm vụ chính của Bảo tàng sau chiến tranh là thu hồi hiện vật sơ tán ở các địa phương tập trung về Hà Nội, tranh thủ sưu tầm hiện vật ở các chiến trường; củng cố, nâng cấp, sửa chữa hệ thống trưng bày phục vụ khách tham quan.
Đầu năm 1979, Tổng cục Chính trị ra quyết định số 87/QĐ về nhiệm vụ, tổ chức của Viện Bảo tàng Quân đội. Theo đó, tổ chức biên chế có 4 phòng, một ban với quân số 38 cán bộ, chiến sỹ.
Năm 1987, Bảo tàng tiếp nhận Khu di tích lịch sử Điện Biên Phủ, thành lập Phân viện Điện Biên Phủ trực thuộc Viện Bảo tàng Quân đội, đến năm 1996, Bảo tàng Quân đội chuyển giao khu di tích Điện Biên cho tỉnh Lai Châu nay là tỉnh Điện Biên quản lý.

Ngày 4/12/2002, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 1155/QĐ-TTg đổi tên Viện Bảo tàng Quân đội thành Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam với 4 phòng, 1 ban, quân số 50 cán bộ chiến sỹ. Từ đây chức năng, nhiệm vụ, không gian trưng bày của bảo tàng phát triển và mở rộng.

II.               Nội dung trưng bày của bảo tàng :
1.     Giai đoạn kháng chiến chống Pháp :

Như tất cả chúng ta đã biết, ngày 2-9-1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà non trẻ vừa hình thành đã phải lo đối phó với thù trong, giặc ngoài, tiêu biểu thời kỳ bấy giờ là tàn quân của phát xít Nhât, quân Anh và Pháp ở miền Nam vào giải giáp quân Nhật, quân Tưởng ở miền Bắc. Sau nhiều lần tìm cách hoà hoãn và kéo dài thời gian hoà bình, ngày 19-12-1946, Hồ Chủ tịch đã phải đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, chính thức đưa nước ta vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kéo dài 9 năm. Trong 9 năm trời kháng chiến chống Pháp, quân và dân ta đã chiến thắng nhiều chiến dịch, tiêu biểu nhất là Chiến dịch Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta. Các hiện vật trong bảo tàng về thời kỳ chống Pháp đa số là về Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Trận Điện Biên Phủ là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu Điện Biên, tỉnh Lai Châu (nay thuộc thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên), giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) và quân đội Liên hiệp Pháp (gồm lực lượngviễn chinh Pháp, lê dương Pháp, phụ lực quân bản xứ và Quân đội Quốc gia Việt Nam).
Đây là chiến thắng quân sự lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp 1945  1954 của Việt Nam. Bằng thắng lợi quyết định này, lực lượng QĐNDVN do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy đã buộc quân Pháp tại Điện Biên Phủ phải đầu hàng vào tháng 5 năm 1954, sau suốt 2 tháng chịu trận. Giữa trận này, quân Pháp đã gia tăng lên đến 16.000 người nhưng vẫn không thể chống nổi các đợt tấn công của QĐNDVN. Thực dân Pháp đã không thể bình định Việt Nam bất chấp nhiều năm chiến đấu và sự hỗ trợ ngày càng gia tăng của Hoa Kỳ, và họ đã không còn khả năng để tiếp tục ứng chiến sau thảm bại này.
Trên phương diện quốc tế, trận này có một ý nghĩa rất lớn: lần đầu tiên quân đội của một nước thuộc địa châu Á đánh thắng bằng quân sự một quân đội của một cường quốc châu Âu. Được xem là một thảm họa bất ngờ đối vớithực dân Pháp và cũng là một đòn giáng mạnh với thế giới phương Tây, đã đánh bại ý chí duy trì thuộc địa Đông Dương của Pháp và buộc nước này phải hòa đàm và rút ra khỏi Đông Dương, các thuộc địa ở Châu Phi được cổ vũ cũng đồng loạt nổi dậy. Chỉ riêng trong năm 1960, 17 nước châu Phi đã giành được độc lập và đến năm 1967, Pháp đã buộc phải trao trả độc lập cho tất cả các nước là thuộc địa của Pháp.
Qua đó, đại thắng của QĐNDVN trong Chiến dịch Điện Biên Phủ còn được xem là một thảm họa đánh dấu thất bại hoàn toàn của nước Pháp trong nỗ lực tái gây dựng thuộc địa Đông Dương nói riêng và đế quốc thực dân của mình nói chung sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, qua đó chấm dứt thời đại hơn 400 năm của chủ nghĩa thực dân kiểu cổ điển trên thế giới.
Các hiện vật tiêu biểu thời kỳ này như chiếc xe đạp thồ huyền thoại, chỉ 1 chiếc xe đạp đơn xơ nhưng có thể vận chuyển đến 300kg lương thực, vượt qua gần 400km đường núi để tiếp vận từ khu vực giải phóng đến khu vực diễn ra chiến dịch. Hay như hình ảnh đoàn quân kéo những khẩu pháo 105mm vượt qua những ngọn núi, một hình ảnh mà không một ai, một dân tộc nào có thể tưởng tượng ra đã được người Việt Nam thực hiện. Và cũng chỉ cần qua chiếc xe hay hình ảnh kéo pháo, ta có thể hiểu được ý chí của nhân dân Việt Nam ta khi một lòng đoàn kết đánh thắng thực dân Pháp xâm lược.

2.     Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ :

Giai đoạn 1960- 1968:
Sau hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, ở miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam ta thực hiện đấu tranh đòi thực hiện hiệp định Giơ- ne –vơ nhằm tiến tới hiệp thương tổng tuyển cử, hoà hợp hai miền vào năm 1956. Nhưng kế hoạch đã không thể thực hiện do có sự tham gia của người Mỹ vào miền Nam,lập ra Việt Nam Cộng Hoà, xoá bỏ hiệp định Giơ-ne-vơ, ngang nhiên khủng bố những người có thân nhân tập kết ra Bắc, ra đạo luật 10-59, đưa máy chém lê khắp miền Nam, gây bao đau thương, mất mát cho nhân dân Việt Nam. Trước tình hình đó, chúng ta đã mở Đường Trường Sơn nhằm chi viện cho miền Nam, con đường này được thành lập vào tháng 5 năm 1959, vơi sự chỉ huy của Thiếu tướng Võ Bẩm. Năm 1960, nhân dân miền Nam đã nổi dậy đấu tranh, tạo ra cuộc Đồng Khởi lớn chưa từng có, làm lung lay tận gốc chế độ Việt Nam Cộng Hoà. Các hiện vật trong bảo tàng vào thời kỳ này đa số là hình ảnh về đạo luật 10-59, các vũ khí thô sơ của nhân dân miền Nam dùng để chống lại kế hoạch Chiến tranh Cục Bộ và Chiến tranh Đặc Biệt mà Mỹ dùng ở Việt Nam. Đặc biệt là các loại vũ khí như hầm chông, bẫy chông, cửa sập, bẫy mìn cánh quạt, kể cả bẫy làm bằng tổ ong cũng được sử dụng…. Những thứ vũ khí tưởng như rất thô sơ, không thể lấy mạng của lính địch nhưng lại reo rắc sự kinh hoàng, khiến cho những lính Mỹ và lính Việt Nam Cộng Hoà mất tinh thần, không thể tự do hoạt động, dẫn tơi sự kiểm soát các khu vực rộng rãi của quân giải phóng. Đặc biệt, trong giai đoạn này, nhân dân ta đã tạo ra hệ thống địa đạo Củ Chi nổi tiếng thế giới, một địa đạo ngay gần Sài Gòn nhưng quân Mỹ và VNCH không thể phá huỷ được, nó là minh chứng sâu sắc nhất khả năng của người Việt Nam ta trong công cuộc cứu nước. Ngoài ra còn có một phần vũ khí, khí tài do quân ta thu lượm, cướp được của quân Mỹ, VNCH và sử dụng để chống địch như súng M16, súng phóng lựu M79, mìn định hướng hay những chiếc xe bọc thép M113, máy bay UH-01.
Cuối năm 1967, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nghi binh quân Mỹ khi tiến đánh và bao vây 5000 lính Mỹ và VNCH ở Khe Sanh, khiến người Mỹ lo sợ nơi đây sẽ biến thành Điện Biên Phủ thứ 2 ở Việt Nam. Vậy nhưng bất ngờ, ngày 28/1/1968, tức Tết Mậu Thân, khi chủ tịch Hồ Chí Minh đọc thơ xuân chúc tết, cũng là lúc toàn bộ nhân dân các tỉnh miền Nam nổ súng tiến công. Cuộc tiến công Tết Mậu Thân đã gây ra sự bất ngờ với người Mỹ và VNCH, khiến cho hình ảnh về cuộc chiến Việt Nam thay đổi hẳn trong tâm trí người dân Mỹ, nhất là với những hình ảnh về việc ta chiếm Đại Sứ Quán Mỹ ở Sài Gòn trong nhiều giờ, khiến lực lượng Mỹ rất vất vả mới có thể chiến lại.
Hiện trong bảo tàng lịch sử quân sự còn có chiếc xe hơi Renault, chiếc xe này đã được sử dụng trong cuộc tiến công Mậu Thân 1968, hay như những bức thư khen ngợi mà Bác đã gửi đồng bào miền Nam.

Giai đoạn 1969 – 1975:
 Đây là giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, cuộc trường chinh đi chậm của dân tộc ta trước quân xâm lược Pháp và Mỹ. Sau những tổn thất trong Tết Mậu Thân, cùng với đó là mùa hè đỏ lửa năm 1972 ở Quảng Trị, quân Mỹ quyết định ném bom để đưa Việt Nam trở về thời đồ đá vào cuối năm 1972, chiến dịch đó mang tên Điện Biên Phủ trên không hay với phía Mỹ là LineBacker 2. Chiến dịch Linebacker II là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong Chiến tranh Việt Nam, từ 18 tháng 12 đến 30 tháng 12 năm 1972 sau khi Hội nghị Paris bế tắc và đổ vỡ. Chiến dịch này là sự nối tiếp của chiến dịch ném bom Linebacker diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1972, ngoại trừ điểm khác biệt lớn là lần này trọng tâm sẽ là các cuộc tấn công dồn dập bằng máy bay ném bom chiến lược B-52 thay vì các máy bay ném bom chiến thuật và mục đích là dùng sức mạnh và biện pháp không hạn chế đánh thẳng vào các trung tâm đầu não của Việt nam Dân chủ Cộng hoà. Tại chiến dịch này Hoa Kỳ đã sử dụng lực lượng không quân chiến lược với B-52 làm nòng cốt ném bom rải thảm huỷ diệt xuống Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên và các mục tiêu khác liên tục trong 12 ngày đêm. Đây là những cuộc ném bom dữ dội nhất trong Chiến tranh Việt Nam và là một trong những cuộc tập kích có cường độ cao nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh. Trong 12 ngày, Mỹ đã thả hơn 36.000 tấn bom, vượt quá khối lượng bom đã ném trong toàn bộ thời kì từ 1969 đến 1971.
Cuộc ném bom tuy có gây những tổn thất nặng nề cho phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhưng đã không làm thay đổi được lập trường của lãnh đạo nước này về vấn đề cơ bản của hiệp định hoà bình, đồng thời nó gây một làn sóng bất bình lớn của người Mỹ, dư luận và chính giới của các nước trên thế giới trong đó có cả các đồng minh lâu dài của Hoa Kỳ, uy tín của Chính phủ Hoa kỳ bị xuống thấp nghiêm trọng. Bị phản đối trong nước, bị cô lập trên trường quốc tế, gặp phải sự chống trả hiệu quả gây thiệt hại lớn cho lực lượng không quân chiến lược, lại không thể buộc đối phương thay đổi lập trường, Tổng thống Richard Nixon đã phải ra lệnh chấm dứt chiến dịch vào ngày 30 tháng 12, đề nghị nối lại đàm phán tại Paris và cuối cùng nhanh chóng ký kết Hiệp định Paris trên cơ sở dự thảo mà phía Mỹ trước đó đã từ chối ký kết. Sau chiến dịch ném bom khí thế, lòng tự hào trong Quân đội nhân dân Việt Nam và người dân tại miền Bắc Việt Nam lên rất cao: họ đã đánh thắng được "thần tượng B-52", đó là những cơ sở để phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà coi chiến dịch này là một thắng lợi to lớn của họ.
Chiến dịch này còn có một ý nghĩa tâm lý nặng nề cho giới quân sự Hoa Kỳ: đây là chiến dịch mà phía Mỹ đã chủ động lựa chọn mục tiêu, thời điểm, phương thức chiến đấu và đặc biệt là sử dụng sở trường của mình để chống lại sở đoản của đối phương (trình độ khoa học công nghệ), một cuộc đấu mà đối phương sẽ không thể sử dụng yếu tố "du kích" – một cách hình tượng: phía Mỹ thách đấu và được quyền lựa chọn vũ khí và đã thất bại.
Chiến dịch này cũng cho thấy điểm yếu của vũ khí máy bay ném bom chiến lược của Hoa Kỳ: một trong những vũ khí chiến lược dùng để chống chọi đối thủ tiềm tàng xứng tầm là Liên Xô cho một cuộc chiến tranh công nghệ cao đã thể hiện điểm yếu ngay khi đối phương có trình độ kinh tế, quân sự, khoa học – công nghệ kém hơn nhiều và vũ khí chống trả chưa phải là loại cao cấp của đối phương (vào thời điểm 1972, tên lửa SA-2 mà Việt Nam sử dụng đã bị Liên Xô thay thế bằng SA-4  SA-5 mạnh hơn nhiều). Hiện trong bảo tàng còn lưu giữ những bộ quân phục của phi công Mỹ, những tên lửa SA-2, máy bay Mig-21 hay những quả boom mà người Mỹ đã thả xuống Bắc Việt Nam. Những quả bom đã cho thấy tính chất kinh hoàng của cuộc chiến mà người Việt Nam đã phải gánh chịu chỉ trong 12 ngày đêm, nhưng chính những quả bom cũng đã thể hiện được quyết tâm thà hy sinh tất cả chứ không chịu để mất nước của dân tộc Việt Nam. Thất bại của chiến dịch Line Backer 2 đã khiến người Mỹ ngồi vào bàn đàm phán Paris và ký vào hiệp định rút quân khỏi Nam Việt Nam, trong khi quân đội Bắc Việt Nam vẫn được giữ nguyên ở Nam Việt Nam. Điều này đã tạo thuận lợi cho Chiến dịch mùa xuân năm 1975.
 Chiến dịch mùa xuân năm 1975 là tên gọi của những cuộc Tổng tấn công quân sự cuối cùng của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch bắt đầu từ ngày 4 tháng 1 và kết thúc ngày 30 tháng 4 năm1975. Ngoài Trận Phước Long được coi là trận đánh trinh sát chiến lược, cuộc Tổng tấn công này gồm ba chiến dịch liên tiếp nhau: Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4 tháng 3 đến 24 tháng 3), Chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng(từ 21 tháng 3 đến 29 tháng 3) và cuối cùng là Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ 26 tháng 4 đến 30 tháng 4). Ngoài ra, còn có những chiến dịch nhỏ hơn nhưng diễn ra trên những địa bàn chiến lược như Long Khánh - Xuân Lộc, Trường Sa và các đảo trên Biển Đông, các trận đánh trên các tuyến phòng thủ từ xa của QLVNCH như Tây Ninh - An Lộc - Dầu Tiếng, Phan Rang - Ninh Thuận. Những chiến dịch này được thực hiện sau khi Hoa Kỳ đã rút quân viễn chinh khỏi Việt Nam, chỉ còn duy trì viện trợ và lực lượng cố vấn. Cán cân lực lượng đã nghiêng hẳn sang phía lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân đội nhân dân Việt Nam. Chiến dịch Hồ Chí Minh, tên nguyên thủy là Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định, là chiến dịch cuối cùng của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong Cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 và cũng là chiến dịch cuối cùng của cuộc Chiến tranh Việt Nam. Đây cũng là chiến dịch quân sự có thời gian diễn biến ngắn nhất trong Chiến tranh Việt Nam, diễn ra từ ngày 26 tháng 4 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 (tại Sài Gòn) và kéo theo các cuộc nổi dậy vũ trang của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam tại Đồng bằng sông Cửu Long trong hai ngày 1 và 2 tháng 5. Chiến dịch này dẫn đến kết quả là chấm dứt hoàn toàn sự chia cắt hai miền Nam - Bắc Việt Nam sau 21 năm, đưa đến việc thống nhất xã hội, chế độ chính trị, dân cư và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam trên đất liền, vùng lãnh hải, vùng trời và một số hải đảo. Nhìn vào hiện vật trong bảo tàng, ta thấy có nhiều hiện vật tiêu biểu như Mệnh lệnh lịch sử của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, chiếc xe jeep đã đưa Dương Văn Minh đến đài phát thanh để đọc thông điệp đầu hàng vô điều kiện, đặc biệt súng ngắn hay con dấu, quân hiệu của Nguyễn Văn Thiệu.
3.     Giai đoạn phát sau 1975:
Sau 1975, quân đội ta chủ yếu phát triển, hiện đại hoá nhằm theo kịp thời đại với các vũ khí nghiêng về việc phòng thủ, trong đó phòng thủ biển và hải đảo là nhiệm vụ trọng tâm. Việt Nam trong những năm qua đã đặt mua những vũ khí như máy bay Su- 25, Su-27 hay Su-30, sắp tới là phi đội Su-34. Về hải quân, ta thành lập lực lượng cảnh sát biển, nhằm quản lý việc xâm nhập của tàu lạ, tránh việc buôn lậu trên biển. Hải quân chính quy, ta mua 12 tàu Molnya, tàu Gepard hay sắp tới là lô 6 tàu Kilo 636 của Nga. Trong bảo tàng hiện nay có nhiều mô hình tàu hộ vệ, tàu cảnh sát biển, tàu cứu hộ, những hình ảnh tự hào về hải quân và không quân Việt Nam.



NHÓM 4:


Nguyễn Quốc Trưởng
Trần Tuấn Việt
Nguyễn Thị Bảo Yến
Đỗ Như Xiếc
Lê Thị Trang
Hoàng Thị Quỳnh Trang

Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

Kế hoạch học kỳ 2 năm học 2013-2014

Căn cứ kế hoạch học tập năm học 2013 - 2014, Hiệu trưởng nhà trường yêu cầu lãnh đạo các khoa thực hiện một số việc sau:

1/ Sinh viên nghỉ Tết âm lịch từ ngày 20 tháng 01 đến hết ngày 09/02/2014.
2/ Học kỳ 2 năm học 2013 – 2014 bắt đầu từ ngày 10/02/2014.
TT
NỘI DUNG
GHI CHÚ
K.18
Từ 10/02/2014 đến 28/6/2014: Học văn hóa và thi học kỳ 2.
19 tuần, dự trữ 01 tuần.
K.17
Từ 10/02/2014 đến 28/6/2014: Học văn hóa và thi học kỳ 2.
19 tuần, dự trữ 01 tuần.
K.16
Từ 10/02/2014 đến 24/5/2014:Học văn hóa, thực tập và làm khóa luận hoặc thi tốt nghiệp (hệ 5 năm học văn hóa học kỳ 2).
15 tuần.
K.15
Từ 10/02/2014 đến 24/5/2014: Thực tập và làm đồ án tốt nghiệp.
15 tuần.


 3/ Các khoa lập kế hoạch giảng dạy, danh sách giảng viên học kỳ 2 năm học 2013 - 2014 báo cáo về trường qua phòng Đào tạo &QLSV trước ngày 27/01/2014.

 4/ Đối với sinh viên năm cuối thi tốt nghiệp môn Lý luận chính trị vào ngày 28/02/2014, các khoa thông báo cho sinh viên chọn một trong ba học phần để đăng ký và nộp danh sách dự thi về trường qua phòng Đào tạo &QLSV trước ngày 15/02/2014. Nội dung ôn thi 
xem trên www.dongdo.edu.vn