2013 - .::Website K16 Văn hóa Du Lịch::.

468x60 Ads

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

Bìa Bài tiểu luận cực đẹp cho bài word

Bạn đang cần bìa word để làm bài báo cáo, tiểu luận, luận án, giáo án, chuyên đề,.. Sau đây mình sẽ giới thiệu cho các bạn các mẫu để các bạn làm các bài thảo luận, đề án, đồ án, báo cáo, chuyên đề,... mà mình sưu tập được của các quán Photo, các bài báo cáo chuyên đề các bạn có thể chọn những mẫu mà các bạn thích.
Bìa Bài tiểu luận cực đẹp cho bài word - http://namkna.blogspot.com/
Bấm vào hình bên cạnh để xem phóng to
Download
Link phụ
Bìa Bài tiểu luận cực đẹp cho bài word - http://namkna.blogspot.com/
Bấm vào hình bên cạnh để xem hình phóng to.
Download 
Link phụ
Bìa Bài tiểu luận cực đẹp cho bài word - http://namkna.blogspot.com/
Bấm vào hình bên cạnh để xem phóng to.
Download 
Link phụ
Bìa Bài tiểu luận cực đẹp cho bài word - http://namkna.blogspot.com/
- Mẫu này Gồm có 7 mẫu bìa 
Hình bên là một hình đại diện, bấm vào hình để xem phóng to. 
Download
Link phụ
Bìa Bài tiểu luận cực đẹp cho bài word - http://namkna.blogspot.com/
Bấm vào hình bên cạnh để xem phóng to:
Download
Link phụ
Bìa Bài tiểu luận cực đẹp cho bài word - http://namkna.blogspot.com/
File này gồm rất nhiều mẫu khác được namkna sưu tầm

100 mẫu part 1
13 mẫu part 2
12 mẫu part 3   

Hãy bấm +1 để chia sẻ bài viết này với mọi người nha.

Cách giảm dung lượng cho bài Powerpoint

Các bạn làm xong một bài Powerpoint và muốn gửi mail cho thầy (cô) giáo.
nhưng dung lượng của bài PPT đó lại hơn 25 M một chút. Để có thể giảm bowys dung lượng của bài PPT đó ngoài dùng WinRaR để nén thì ta cũng có thể giảm dung lượng bằng cách làm giảm dung lượng các hình ảnh trong bài PPT đó mà không làm ảnh hưởng tới chất lượng của hình ảnh như sau:

-         bước 1: kick đúp vào một hình bất kỳ trong bài Powerpoint – Chon thẻ picture
Photobucket


-         bước 2: Ấn chọn Compress

Photobucket

-         Bước 3: Chọn All picture and Document để giảm dung lượng cho tất cả các bức ảnh trong bài Powerpoint --> ok --> ok

Photobucket

Giờ các bạn tắt bài Powerpoint đi nếu máy hỏi có lưu các chỉnh sửa vùa thiết lập không thì chọn Yes
Photobucket

Các bạn kiểm tra lại dung lượng của File sẽ thấy sự khac biệt rõ rệt. bài Powerpoint càng sử dụng nhiều hình ảnh thì dung lượng càng giảm nhiều (vì đây là nén hình ảnh lại mà :D)
Cách khác!
Đối với các phiên bản trước 2007 (Powerpoint 2000, 2003):
Tối ưu hóa file Powerpoint
1. Mở file powerpoint bạn có ý định thực hiện thao tác này
2. Click thực đơn File và chọn Save as
3. Trong hộp thoại lưu, click chọn menu Tools
4. Chọn Compress Pictures
5. Chọn tất cả các file ảnh trong tài liệu (All Pictures in document)
6. Chọn Web/Screen nếu bạn không cần in tài liệu ra giấy với chất lượng cao.
7. Chọn Compress pictures và Delete cropped areas of pictures
8. Click OK
9. Xác nhận rằng bạn muốn nén các hình ảnh này (nếu hộp thoại yêu cầu xuất hiện)
10. Lưu bài trình bày của bạn dưới một cái tên mới (ví dụ: oct_reports_compressed.ppt)
11. Click Save
Nén file PowerPoint trong Office 2007:
1. Mở file Powerpoint
2. Bấm chọn SAVE floppy icon ở góc bên trái
3. Click menu Tools nằm bên cạnh nút Save
4. Chọn Compress Pictures
5. Chọn Options
6. Chọn Automatically perform basic compression on save
7. Chọn Delete cropped areas of pictures
8. Chọn đầu ra thích hợp (print, screen, hay email)
9. Click OK
10. Click OK để thiết lập các tùy chọn đó
11. Lưu dưới một cái tên khác (ví dụ: my_report_compressed.ppt)
Rất dễ phải không nào?. Chúc bạn thành công
Chúc các bạn thành công...! Photobucket

Portable NXPowerLite 4.11 - Giảm dung lượng file PPT đáng kể


NXPowerLite Toi uu hoa de giam dung luong cho cac file PowerPoint

Chương trình PowerPoint được dùng rất phổ biến để tạo các file trình diễn dùng trong giảng dạy, công việc, giới thiệu sản phẩm... Tuy nhiên, nhiều khi các file PowerPoint (*.ppt, *.pps) mà bạn tạo ra có dung lượng quá lớn, không phù hợp để bạn sao chép qua nơi khác hoặc chia sẻ qua e-mail, mạng internet... Do vậy, bạn có thể dùng chương trình NXPowerLite để tối ưu hóa các file PowerPoint.

NXPowerLite sẽ giúp bạn tối ưu hóa các tài liệu, hình ảnh... mà bạn đã nhúng vào trong file PowerPoint. Nhờ vậy, dung lượng file PowerPoint của bạn sẽ được giảm thiểu rõ rệt mà chất lượng vẫn có thể đảm bảo.

Giao diện của NXPowerLite rất đơn giản nên bạn sẽ dễ dàng sử dụng thành thạo chương trình này. Khi cần tối ưu hóa các file PowerPoint thì bạn khởi động chương trình NXPowerLite. Sau đó, bạn bấm vào nút “Browse...” trong ô “Presentation to optimize” để chọn file PowerPoint cần giảm dung lượng.

Tiếp theo, bạn bấm vào nút “Browse...” trong ô “Save optimized presentation as” để chọn nơi lưu giữ file PowerPoint sau khi đã được giảm dung lượng. Nếu cần điều chỉnh lại mức nén khác nhau cho phù hợp với nhu cầu cụ thể thì bạn bấm vào nút “Change” ở mục “Settings”, tiếp theo, bạn bấm chọn chuẩn nén mới trong ô “Compression mode”, chọn xong bấm nút “OK”.

Sau cùng, bạn bấm vào nút “Optimize” để chương trình NXPowerLite bắt đầu thực hiện quá trình tối ưu hóa file PowerPoint.

TẢI VỀ TẠI ĐÂY: http://www.lamdong.edu.vn/Resources/Docs/2012/Phan%20mem/NXPowerLite%204.11%20Multilenguaje.zip
Hoặc: https://www.facebook.com/download/127992784038126/NXPowerLite%204.11%20Multilenguaje.zip

name: QuocTruong.Net
serial : AGS48-V833S-XTCDK-HWR6X-HNA45
or
8SNM3-GFG8D-AZN9B-CQFG7-8BU54
or
ASN33-334AM-XBW5H-C4JLX-MLX2J

Thứ Tư, 4 tháng 9, 2013

Lịch học k16 học kỳ 7 từ 09/09/2013

Lịch học k16 tại 170 Phạm Văn Đồng- phòng 202

Chiều thứ 2: nghiệp vụ ngoại giao
Sáng thứ 3: bảo tàng
Sáng thứ tư, thứ năm: tiếng trung
Bắt đầu học từ thứ 2 ngày 09/09/2013.
Học phí học kỳ 7: 4tr6

Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

Thông báo chuyển địa điểm

Ban giám hiệu, Văn phòng nhà trường và các khoa Quan hệ quốc tế, Ngoại ngữ, Du lịch, Thông tin học chuyển đến địa điểm mới từ tháng 7/2013 tại: 170 Phạm Văn Đồng - phường Mai Dịch - quận Cầu Giấy - Hà Nội.
Vậy kính mời phụ huynh và sinh viên liên lạc và làm việc tại địa điểm trên









Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2013

Kế hoạch năm học 2013-2014

Căn cứ chương trình đào tạo hệ đại học chính quy hệ 4 năm và hệ 5 năm, ngày 18 tháng 6 năm 2013, Hiệu trưởng nhà trường đã ban hành công văn số 120/CV-ĐĐ về  kế hoạch học tập, giảng dạy năm học 2013 – 2014 như sau: 

KHÓA HỌC HỌC KỲ 1 HỌC KỲ 2
  K.18 - 23/9 đến 28/9/2013: Sinh hoạt chính trị đầu khóa.
- 30/9/2013 đến 18/01/2014: Học văn hóa, thi học kỳ  16 tuần
- 20/01 đến 08/02/2014: Nghỉ Tết âm lịch. 
-  10/02/2014 đến 28/6/2014: Học văn hóa , thi học kỳ 19 tuần, dự trữ 01 tuần. 
 K.17 - 09/9/2013 đến 18/01/2014: Học văn hóa, thi học kỳ 19 tuần.
- 20/01 đến 08/02/2014: Nghỉ Tết âm lịch 
-  10/02/2014 đến 28/6/2014: Học văn hóa , thi học kỳ 19 tuần, dự trữ 01 tuần. 
 K.16 - 09/9/2013 đến 18/01/2014: Học văn hóa, thi học kỳ 19 tuần.
- 20/01 đến 08/02/2014: Nghỉ Tết âm lịch. 
-   10/02/2014 đến 24/5/2014: Học văn hóa , thực tập và làm KLTN.
-   Hệ 5 năm học, thi học kỳ 8.
 K.15 - 09/9/2013 đến 18/01/2014: Học văn hóa, thi học kỳ 19 tuần.
- 20/01 đến 08/02/2014: Nghỉ Tết âm lịch. 
-   10/02/2014 đến 24/5/2014: Thực tập và làm đồ án tốt nghiệp.
 
-    
Tuần sinh hoạt công dân đầu năm học nhà trường sẽ có thông báo cụ thể sau (sinh viên được nghỉ học văn hóa trong thời gian thực hiện Tuần sinh hoạt công dân).

-
 Các ngày lễ được nghỉ trong năm học thực hiện theo quy định của nhà nước.

Học phí học kỳ 7


Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

Hiểu thêm về 'gốc tích' của Tản Viên Sơn Thánh



Hiểu thêm về

Tản Viên Sơn Thánh (còn có tên gọi Sơn Tinh) là một trong bốn vị thánh bất tử, với các sự tích, truyền
thuyết thể hiện khát vọng làm chủ thiên nhiên, mở đất và dựng nước.




Liên quan tới nguồn gốc xuất thân của vị Thánh này, theo các nhà nghiên cứu, vẫn có nhiều quan niệm và cách giải thích khác nhau.

Tản Viên Sơn Thánh là ba anh em
Xuất phát từ nhận định cốt lõi tín ngưỡng Tản Viên Sơn Thánh là tín ngưỡng thần núi (Sơn Tinh, Sơn thần) nằm trong hệ thống tín ngưỡng các hiện tượng tự nhiên, các học giả khẳng định rằng, nói tới Tản Viên Sơn Thánh là nói tới cả ba anh em thần núi (còn được gọi là Tam vị Đại Vương Quốc chúa Thượng đẳng thần), gồm: Sơn Tinh và hai người em thúc bá là Cao Sơn (Sùng công) và Quý Minh (Hiển công) - chia nhau cai quản, mỗi người một ngọn núi, tức núi Ba Vì ngày này - núi tổ của nước ta, có ba ngọn cao chót vót (Nguyễn Trãi - Dư địa chí).
Minh chứng cho giải thích này là hiện nay, trên địa bàn hai xã Minh Quang và Ba Vì (thuộc huyện Ba Vì) có khu đền thờ Tản Viên Sơn Thánh, gồm 3 đền Thượng, đền Trung và đền Hạ - nơi thờ phụng Tam vị Tản Viên Sơn Thánh huyền thoại. Theo đó, sâu chuỗi các sự kiện thấy rõ, công chúa Ngọc Hoa, vợ của Thánh Tản (người anh cả), không được đề cao ngang hàng với Tam vị Tản Viên Sơn Thánh, dù rằng ở một số làng nơi giáp ranh giữa Sơn Tây, Ba Vì, Phú Thọ vẫn có những lễ hội đề cao Ngọc Hoa. Chưa kể, văn tế, sự sắp xếp các ngai thờ, nghi lễ, tự khí... mà các học giả khảo sát tại những ngôi đền thờ Thánh Tản ở vùng xung quanh núi Ba Vì càng góp phần làm sáng tỏ cho những nhận định trên.
Tản Viên Sơn Thánh là con của Lạc Long Quân, Âu Cơ
Trong Lĩnh Nam chích quái, các học giả, sử gia cho rằng, Tản Viên là một trong 50 người con của Lạc Long Quân, Âu Cơ theo cha xuống biển. Chuyện rằng, chàng từ biển đi vào, qua cửa Thần Phù, ngược sông Hồng đến Long Đỗ (Hà Nội), Trấn Trạch, rồi ngược sông Lô, đến Phúc Lộc giang. Từ đấy, nhìn thấy núi Tản Viên cao vời, xinh đẹp, lại thêm phía dưới dân chúng thuần phác, thái bình, nên chàng đã làm một con đường thẳng như kẻ chỉ, từ Bạch Phiên Tân lên thẳng phía Nam núi Tản Viên, tới động An Uyên, thì lập diện để nghỉ ngơi.

Tương tự, các tác giả Lịch triều Hiến chương (Phan Huy Chú) và Việt sử Thông giám cương mục ... cũng có quan niệm Tản Viên Sơn Thánh là con của Lạc Long Quân, Âu Cơ.

Khu đền thờ Tản Viên Sơn Thánh trên địa bàn hai xã Minh Quang và Ba Vì, thuộc huyện Ba Vì.

Tản Viên Sơn Thánh là hư cấu

Thần núi Tản cũng như hàng loạt nhiên thần được ra đời từ thời nguyên thuỷ của tổ tiên ta lúc họ đã bắt đầu biết nhận thức về thế giới khách quan và với khả năng tư duy trừu tượng của buổi đầu, con người chưa thật sự phân biệt được giữa mình với giới tự nhiên mà mình đang cùng sống, đang phải phụ thuộc. Khi ấy con người đã đồng nhất giữa mình với các vật thể của thiên nhiên. Người ta đã nhân cách hóa các lực lượng tự nhiên làm nảy sinh các vị thần đầu tiên đó là thần siêu nhiên, thần vũ trụ.

Vào thời kỳ xã hội nguyên thuỷ, Tản Viên Thánh chắc chắn chỉ được tôn vinh với tư cách là vị nhiên thần nhưng nhờ là thần núi cao nên uy linh hơn các thần tự nhiên khác. Lúc đầu, Tản Viên chỉ đơn giản được thờ để che chở cho con người. Đến khi xã hội thị tộc nguyên thủy tan rã, ra đời các liên minh bộ lạc hay liên minh bộ tộc với cơ sở của nền văn hóa lúa nước và văn minh sông Hồng phát triển rực rỡ, đồng thời với nghề kim thuộc đúc đồng đã ở trình độ tinh sảo. Ý thức về đoàn kết cộng đồng về quốc gia dân tộc đã phát triển cao thì truyện về các thần tự nhiên, đặc biệt là thần Tản Viên mới được nâng lên thành một thần thoại điển hình do được nhân hóa và lịch sử hóa.

Cụ thể, bước vào nhà nước Văn Lang thời cổ đại, Tản Viên trở thành vị anh hùng truyền thuyết của cả cộng đồng quốc gia dân tộc. Lúc đầu thần được người Mường ở làng Cổ Pháp chân núi Ba Vì lập đền thờ. Rồi các làng vùng Mường ở Hà Tây, Phú Thọ lan rộng ra các làng người Kinh ở Sơn Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thọ đã có rất nhiều làng thờ thần Tản Viên cùng với thờ Cao Sơn, Quý Minh...
Có thể nói, qua văn minh Đại Việt, mỗi ngày lí lịch của thần Tản Viên lại được bồi đắp thêm công trạng tài đức để thần càng ngày càng có vẻ người hơn và thánh hơn.

Tản Viên Sơn Thánh là người thực

Theo Ngọc phả Đền Lăng Xương do TS Nguyễn Hữu Công, quan Đô Đốc Thượng Thư cùng với Nguyễn Công Chính và Nguyễn Minh Khai lập vào ngày 15  tháng 11 năm 1011 đời Lê Thái Tổ, niên hiệu Thuận Thiên thứ III, Thánh Tản Viên - Sơn Tinh tên thật là Nguyễn Tuấn, con trưởng ông Nguyễn Cao Hành và bà Đinh Thị Đen (còn gọi là Bà Thái Vĩ), sinh sống ở Động Lăng Xương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây (nay là xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ). Tương truyền một hôm bà vào rừng kiếm củi, đến Thạch Bàn bỗng thấy mây lành bao phủ, rồng vàng bay xuống phun nước như mưa, khí thiêng lan tỏa. Sau khi rồng bay đi, bà thấy hương bay ngào ngạt, nước giếng trong như ngọc, bà liền xuống tắm rồi mang thai từ đấy. Mười bốn tháng sau, đúng ngày rằm tháng giêng năm Đinh Tỵ, giữa giờ thìn bà trở dạ sinh hạ được một cậu con trai tướng mạo khôi ngô, tuấn tú khác thường.

Lớn lên, Nguyễn Tuấn trở thành người cứu độ, tài cao, văn võ song toàn, có phép thần thông biến hóa, “hô phong hoán vũ” và trở thành vị thần (Thánh) của núi Tản Viên – Thần Sơn Tinh. Ông được Hùng Vương kén làm rể, gả con gái Ngọc Hoa. Sau đó, Thủy Tinh vì không được chọn, đã nổi giận đem binh đến đánh, xảy ra các cuộc chinh chiến trong nhiều năm trời. Rốt cuộc, Thủy Tinh luôn là kẻ bại trận...

Như vậy, điển tích này có vẻ phù hợp với những truyền thuyết chung đã có về các thánh bất tử trong tâm thức dân gian, bởi vì chính quan niệm ấy đã tạo nên một hình tượng "Thánh Tản Viên" có tính nhất quán và hoàn chỉnh.
Khu đền thờ Tản Viên Sơn Thánh được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 21/2/2008. Đền Thượng nằm trong khu vực Vườn quốc gia Ba Vì, có lối kiến trúc độc đáo gồm 3 gian, 2 chái. Điều đặc biệt là một nửa mái sau đền hoàn toàn là vách đá. Đền Trung ở lưng chừng núi Ba Vì về phía tây và Đền Hạ nằm ven bờ sông Đà, gồm 3 dãy nhà ngang xếp theo hình chữ Tam.

Theo UBND TP Hà Nội, lễ động thổ và khởi công "Tu bổ, tôn tạo khu di tích Tản Viên Sơn Thánh" sẽ được tổ chức vào sáng 8/6 tới, tại đền Thượng. Đến nay, toàn bộ công việc chuẩn bị đã được các đơn vị liên quan tích cực và cơ bản hoàn thành. Công việc tu bổ, tôn tạo sẽ được tiến hành trên tổng diện tích 3,2 ha của toàn bộ khu di tích, trong đó khu vực khuôn viên đền Hạ là 1,5 ha, đền Trung là 1,15 ha, đền Thượng là 0,37 ha; và tổng diện tích xây dựng là 3.642m2. Toàn bộ kinh phí tu bổ, tôn tạo được huy động từ sự đóng góp của nhân dân và tài trợ của các doanh nghiệp.

Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn


Trần Hưng Đạo (chữ Hán: 陳興道) (1232?[1] - 1300), còn được gọi là Hưng Đạo Vương, tên thật là Trần Quốc Tuấn (陳國峻); là nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất, và là nhà văn Việt Nam thời Trần.


Thân thế và sự nghiệp

Thân thế
Trần Hưng Đạo' là con trai An Sinh Vương Trần Liễu, gọi vua Trần Thái Tông bằng chú ruột [2], và Công chúa Thụy Bà (chị ruột của vua Trần Thái Tông, và là cô ruột Trần Quốc Tuấn) là mẹ nuôi của ông [3]. Nguyên quán ông huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Ông là người có “dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người”, và nhờ “được những người tài giỏi đến giảng dạy” mà ông sớm trở thành người “đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ” [4].

Ba lần chống quân Nguyên Mông

Trần Hưng Đạo trở thành võ quan nhà Trần lúc nào không rõ, chỉ biết vào tháng Chín (âm lịch) năm Đinh Tỵ (1257), ông giữ quyền “tiết chế” để chuẩn bị chống lại cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 9 (1257), (Trần Thái Tông) xuống chiếu, lệnh (cho) tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới (phía Bắc) theo sự tiết chế của (Trần) Quốc Tuấn" [5].
Sau khi đánh lui được quân Nguyên Mông lần đầu (1258), tháng Mười (âm lịch) năm 1283, để chuẩn bị kháng chiến lần hai (1285), Trần Hưng Đạo được vua Trần Nhân Tông phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh các lực lượng quân sự. Tháng Tám (âm lịch) năm sau (1284), ông cho duyệt quân ở bến Đông Bộ Đầu (gần dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay), đọc bài "Hịch tướng sĩ" nổi tiếng, rồi chia quân đóng giữ nơi hiểm yếu.
Đầu năm 1285, tức 27 năm sau, quân Nguyên Mông lại ào ạt tiến công vào phía bắc và vùng Thanh Hóa-Nghệ An. Để bảo toàn lực lượng và thực hiện kế "thanh dã" (vườn không nhà trống), Trần Hưng Đạo ra lệnh rút quân. Quân xâm lược vào Thăng Long rồi tiến xuống Thiên Trường (vùng Nam Định) đuổi theo vua Trần. Vua Trần Thánh Tông lo ngại, vờ hỏi ông xem có nên hàng không. Ông khảng khái trả lời "Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng" [6]. Tháng 5 (dương lịch) năm ấy (1285), ông vạch kế hoạch tổng phản công. Chỉ sau một tháng chiến đấu quyết liệt với các trận Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp,...quân dân nhà Trần đã đánh tan đội quân Nguyên Mông, giải phóng đất nước.
Cuối năm 1287, nhà Nguyên xâm lược lần thứ ba. Trần Nhân Tông hỏi: "Năm nay đánh giặc thế nào?". Trần Hưng Đạo đáp: "Năm nay thế giặc nhàn". Khi đoàn thuyền lương đối phương bị tiêu diệt ở Vân Đồn, chủ tướng là Hoàng tử Thoát Hoan phải rút lui, ông bố trí lực lượng mai phục ở cửa sông Bạch Đằng trực tiếp tổ chức chiến trường tiêu diệt toàn bộ binh thuyền của Ô Mã Nhi vào tháng Tư (âm lịch) năm Mậu Tý (1288). Thoát Hoan nghe tin đội quân thủy đã vỡ tan rồi, liền dẫn tàn quân tháo chạy về nước, dọc đường bị quân Việt đón đánh khiến "quân sĩ mười phần, tổn hại mất 5, 8 phần". Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để trốn chạy về nước.[7].

Lui về Vạn Kiếp rồi qua đời
Tháng Tư (âm lịch) năm Kỷ Sửu (1289), luận công đánh đuổi quân Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo được phong tước Hưng Đạo đại vương. Sau đó, ông lui về ở Vạn Kiếp, là nơi ông được phong ấp (nay thuộc xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Nhân dân lúc bấy giờ kính trọng ông, lập đền thờ sống (sinh từ) ông ở Vạn Kiếp. Tại đền có bài văn bia của vua Trần Thánh Tông, ví ông với Thượng phụ (tức Khương Tử Nha)[8]

Tháng Sáu (âm lịch) năm Canh Tý (1300), ông lâm bệnh, được vua Trần Anh Tông tới thăm và hỏi về kế sách chống ngăn “giặc phương Bắc”. Chữa mãi không khỏi bệnh, ông mất ngày 20 tháng Tám (âm lịch) năm ấy, thọ khoảng 70 tuổi.

Khi sắp mất, Trần Hưng Đạo dặn các con rằng: "Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau mục"[9]

Nghe tin Trần Hưng Đạo mất, triều đình nhà Trần phong tặng ông là "Thái sư Thượng Phụ Quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương". Ông được nhân dân cả nước tôn vinh là "Đức Thánh Trần" và lập đền thờ ở nhiều nơi, song nổi tiếng hơn cả là Đền Kiếp Bạc ở xã Hưng Đạo (Chí Linh, Hải Dương). Đây là nơi ông lập căn cứ, tích trữ lương thực, huấn luyện quân sĩ trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông.


Ghi nhận công lao

Dưới sự lãnh đạo của Trần Hưng Đạo, quân đội nhà Trần đã vượt qua vô vàn khó khăn và hiểm nguy, ba lần đánh tan hàng vạn quân Nguyên Mông xâm lược, giành thắng lợi lẫy lừng, “tiếng vang đến phương Bắc, khiến chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi thẳng tên”[10]. Công lao to lớn này đã đưa ông lên hàng “thiên tài quân sự có tầm chiến lược, và là một anh hùng dân tộc bậc nhất của nhà Trần” [11].

Là một Tiết chế đầy tài năng, khi "dụng binh biết đợi thời, biết thừa thế tiến thoái"[12], đặc biệt là có một có một lòng tin sắt đá vào sức mạnh và ý chí của nhân dân, của tướng sĩ, nên Trần Hưng Đạo đã đề ra một đường lối kháng chiến ưu việt, tiêu biểu là các cuộc rút lui chiến lược khỏi kinh thành Thăng Long, để bảo toàn lực lượng. Kế hoạch "thanh dã" (vườn không nhà trống) và những hoạt động phối hợp nhịp nhàng giữa “hương binh” và quân triều đình, những trận tập kích và phục kích có ý nghĩa quyết định đối cả chiến dịch như ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vân Đồn, và nhất là ở Bạch Đằng...đã làm cho tên tuổi ông bất tử [11].

Có thể nói tư tưởng quán xuyến suốt đời của Trần Hưng Đạo, là một tấm lòng tận tụy đối với đất nước, là ý muốn đoàn kết mọi tầng lớp trong dân tộc thành một lực lượng thống nhất, là tinh thần yêu thương dân. Cho nên trước khi mất, ông vẫn còn dặn vua Trần Anh Tông rằng: "Phải nới sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc" cho sự nghiệp lâu dài của nước nhà[11].

Vì nước, quên thù nhà
Năm Đinh Dậu (1237), Thái sư Trần Thủ Độ ép Trần Liễu (cha Trần Hưng Đạo) phải nhường vợ là Thuận Thiên Công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) cho em ruột là vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) dù bà này đã có thai với Trần Liễu được ba tháng, đồng giáng Lý Chiêu Hoàng (đang là Hoàng hậu) xuống làm Công chúa. Phẫn uất, Trẫn Liễu họp quân làm loạn. Trần Thái Tông chán nản bỏ đi lên Yên Tử. Sau Trần Liễu biết không làm gì được phải đóng giả làm người đánh cá trốn lên thuyền vua Trần Thái Tông xin tha tội. Trần Thủ Độ biết được, cầm gươm đến định giết Trần Liễu nhưng Thái Tông lấy thân mình che cho Trần Liễu. Trần Liễu được tha tội nhưng quân lính theo ông đều bị giết [13]. Mang lòng hậm hực, Trần Liễu tìm khắp những người tài nghệ để dạy Trần Quốc Tuấn (tức Trần Hưng Đạo). Lúc sắp mất, ông cầm tay Quốc Tuấn, trăng trối rằng: "Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được". Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải. Đến khi vận nước lung lay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, Trần Quốc Tuấn đem lời cha trăng trối để dò ý hai thuộc tướng thân tín là Dã Tượng và Yết Kiêu. Hai người thuộc hạ ấy can rằng: "Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu"...Trần Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người.

Một hôm Trần Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ vương: "Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào? Hưng Vũ vương thưa: "Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ!". Trần Quốc Tuấn ngẫm cho là phải. Lại một hôm ông đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến lên thưa: "Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ". Trần Quốc Tuấn rút gươm kể tội: "Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra" và định giết Quốc Tảng, Hưng Vũ vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Trần Quốc Tuấn mới tha. Sau đó, ông dặn Hưng Vũ vương: "Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng" [14].

Năm Ất Dậu (1285), thế quân Nguyên Mông bức bách, hai vua Trần ngầm đi chiếc thuyền nhỏ đến Tam Trĩ nguyên (sông Ba Chẽ, thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay), sai người đưa thuyền ngự ra Ngọc Sơn (mũi biển thuộc châu Vạn Ninh, gần Móng Cái, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) để đánh lừa quân xâm lược. Sách Đại Việt sử ký toàn thư kể: "Lúc ấy, xa giá nhà vua đang phiêu giạt, mà Trần Quốc Tuấn vốn có kỳ tài, lại còn mối hiềm cũ của An Sinh vương, nên có nhiều người nghi ngại. Trần Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi người đều gườm mắt nhìn. Trần Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi chỉ chống gậy không mà đi. Còn nhiều việc nữa, đại loại như thế"[15].


Không tham chức, biết gạt bỏ hiềm khích riêng
Trước kia, Trần Thánh Tông thân đi đánh giặc, Trần Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương bắc đến. Trần Thái Tông gọi Trần Hưng Đạo tới bảo: "Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc".Trần Hưng Đạo thưa: "Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Thái sư theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Thượng tướng. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn."

Một hôm, Trần Hưng Đạo từ Vạn Kiếp tới, Trần Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội, Trần Hưng Đạo thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Trần Quang Khải: "Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi áo Trần Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: "Hôm nay được tắm cho Thượng tướng". Trần Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho". Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai ông ngày càng thêm mặn. Bản thân làm tướng văn, tướng võ, giúp rập nhà vua, hai ông đứng hàng đầu [16]

Sử cũ cũng kể rằng bấy giờ Hưng Vũ vương Nghiễn (là con trai của Trần Quốc Tuấn, lại có công đánh giặc) được lấy Công chúa Thiên Thụy, thế nhưng tướng Trần Khánh Dư lại thông dâm với Thiên Thụy, khiến nhà vua phải xuống chiếu trách phạt và đuổi Khánh Dư về Chí Linh vì "sợ phật ý Quốc Tuấn". Vậy mà khi quân Nguyên Mông sang xâm lược Đại Việt lần thứ 3, Trần Hưng Đạo đã gạt bỏ hiềm riêng, tin cậy "giao hết công việc biên thùy cho phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư" khi ông này được phục chức. Ngoài ra, khi soạn xong Vạn Kiếp tông bí truyền thư, thì Trần Khánh Dư cũng là người được ông chọn để viết bài Tựa cho sách[17].


Khéo tiến cử người tài giỏi, kính cẩn giữ tiết làm tôi

Trần Hưng Đạo khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Các người nổi tiếng khác như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự [18]
Vì có công lao lớn nên nhà vua gia phong ông là Thượng quốc công, cho phép ông được quyền phong tước cho người khác, từ minh tự trở xuống, chỉ có tước hầu thì phong trước rồi tâu sau. Nhưng Trần Hưng Đạo chưa bao giờ phong tước cho một người nào. Khi quân Nguyên vào xâm chiếm nước Việt, ông lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả chứ không cho họ tước lang thực, ông rất kính cẩn giữ tiết làm tôi...[19]

Bị chọc vào đầu đến chảy máu, sắc mặt vẫn không thay đổi
Đầu năm Tân Tỵ (1281), vua Nguyên Mông là Hốt Tất Liệt lại sai Sài Xuân đem ngàn quân hộ tống nhóm Trần Di Ái về nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Sài Xuân ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh. Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, Xuân dùng roi ngựa quất họ bị thương ở đầu... Vua (Trần Nhân Tông) sai Trần Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Xuân nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Xuân làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Xuân đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu của Xuân cầm cái tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Xuân ra cửa tiễn ông..."[20]


Lời tâm huyết trước khi mất

Tháng Sáu (âm lịch) năm Canh Tý (1300), Trần Hưng Đạo ốm. Vua Trần Anh Tông ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: "Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?". Ông trả lời: "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy"[21].

Đền thờ

Đền Bảo Lộc, tỉnh Nam Định
Đền Tân Phẩm, tỉnh Thừa Thiên Huế
Đền Trần Thương, tỉnh Hà Nam
Đền Đức Thánh Trần, 36 Võ Thị Sáu, phường Tân Định, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
Đền A Sào, xã An Thái, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình
Điện Thờ Đức Thánh TRần, thôn Quang Trung , xã Diên Hông, huyện Thanh Miện,tỉnh Hải Dương

Vụ án Lệ Chi Viên


Sử sách chép rằng, Lê Thái Tông (1423 - 1442) đã thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ, rồi đột ngột qua đời. Vào thời điểm đó, vua còn rất trẻ, mới 20 tuổi. Đây chính là vụ án Lệ Chi Viên nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.


Ngày 1/ 9/ 1442, vua Lê Thái Tông, đi duyệt võ ở Chí Linh, trên đường về ghé vào Côn Sơn thăm Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi có một người vợ lẽ là Nguyễn Thị Lộ vừa đẹp vừa hay chữ, từng được Thái Tông vời vào triều phong chức Lễ Nghi học sĩ giữ công việc dạy cung nữ và giảng sách cho vua. Trước khi Thái Tông đến Côn Sơn, Thị Lộ đã về đấy thăm Nguyễn Trãi. 

Ngày 7/ 9, xa giá Thái Tông đến Lệ Chi viên (tục gọi là Trại Vải) ở làng Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, là vợ thứ của Ức Trai Nguyễn Trãi. Tương truyền, năm 1406 khi Nguyễn Trãi (26 tuổi) đang làm quan nhà Hồ, gặp Thị Lộ đang ở tuổi trăng tròn -16 tuổi ở Vũ Lăng. Mới gặp lần đầu sau cuộc mạn đàm thi ca, cả hai nhanh chóng đã tở thành tri kỷ. Tuy nhiên về làm bạn thơ thiếp với Nguyễn Trãi nhiều năm, Thị Lộ vẫn không có con. Họ nhận một người cháu của Ngô Từ là Ngô Chi Lan làm con nuôi.

Trong thời gian Lê Lợi đứng lên khởi nghĩa, Nguyễn Trãi cùng em họ Trần Nguyên Hãn đồng tâm ra giúp sức tụ nghĩa chống quân Minh. Mỗi khi Nguyễn Trãi thảo thư từ, chiếu hịch đều có Thị Lộ ở bên giúp việc sửa chép. Lúc nào, Thị Lộ cũng cần mẫn tươi cười, nhẫn nại, hoạt bát, đoan chính làm việc thông thái nên được mọi người yêu mến, kính nể. Họ sống với nhau hòa thuận đến khi ấy đã vào tuổi 40. Vốn Nguyễn Thị Lộ rất được vua Lê Thái Tông yêu quý vì sắc đẹp, văn hay, luôn được vào hầu bên cạnh vua. Khi về đến Lệ Chi Viên, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ. Đêm ấy, vua bị cảm, đến sáng rồi băng hà. 

Các quan hộ giá giữ kín, đến ngày 9/ 9/ 1442 mới rước linh cữu vua về Thăng Long, rồi báo tin cho nhân dân cả nước biết. Ngay sau đó, Thị Lộ bị bắt. Nguyễn Trãi đang đi kiểm tra ở Đông Bắc, được tin Thái Tông mất,tuy đã được báo rằng về ắt mất mạng nhưng ông vẫn vội trở về Triều cũng bị bắt và bị buộc tội đồng mưu với Thị Lộ để giết vua.

 Ngày 19/ 9/ 1442, Thị Lộ và Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc (a). Sử thần Ngô Sĩ Liên ghi rằng: "Vì yêu Thị Lộ mà Thái Tông bị thiệt thân".

Mãi tới sau này, năm 1464, Nguyễn Trãi mới được vua Lê Thánh Tông minh oan và ban cho câu thơ: 

Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo
Tạm dịch:

Tâm hồn Ức Trai sáng tựa sao Khuê

Mổ xẻ vụ án
Dựa vào truyền thuyết trên, các nhà sử học đã mổ xẻ, phân tích chi tiết mọi hành động, động cơ dẫn tới cái chết của vua Lê Thái Tông. Nhiều câu hỏi được đặt ra: vua chết ở đâu? Ai chứng kiến? Có bắt được hung thủ ở ngay hiện trường không?...

Nơi vua chết là ở chùa Côn sơn như lời mời của Nguyễn Trải, hay tại nhà riêng của Nguyễn Trãi - Thị Lộ? Theo nghi lễ của bậc thiên tử khi ra khỏi cung, vua không bao giờ ở nhà dân, cho dù đó là nhà cha mẹ vợ mà chỉ ở hành cung là nơi đã được sửa soạn trước trong các chuyến vi hành, hoặc ở một nơi tôn nghiêm như đình, chùa. Do vậy, thông thường khi muốn thăm một ai, vua sẽ cho triệu người ấy đến chỗ vua ở, chứ không bao giờ vua đến nhà của họ, trừ trường hợp đi thăm viếng để tìm hiểu dân tình làm ăn sinh sống hoặc các vị đại công thần đau yếu sắp chết không đi được vua mới đến nhà. Vì vậy, có thể loại trừ giả thuyết vua chết ở bên ngoài, tức nơi ở không do triều đình sắp đặt.


"Mọi người đều nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua nhưng trên thực tế, lại chẳng hề có người nào chứng kiến lúc vua hấp hối, băng hà; và đồng nghĩa, cũng chẳng có ai dám khẳng định nhìn tận mắt Nguyễn Thị Lộ giết vua.

Vậy, mọi người ở đây phải chăng là ám chỉ những người có thù hằn với Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ? Chưa kể, cùng thời điểm đấy, trong dân gian lan truyền rằng, bà Nguyễn Thị Lộ là một con rắn biến thành người, dụ dỗ Nguyễn Trãi và hại ba đời nhà ông. Con rắn thành tinh ngầm mang thù oán, mới đầu thai thành Thị Lộ. Nàng sinh ra dưới sườn có vảy..., Lịch triều hiến chương loại chí viết.

Theo nhiều sử gia, mặc dù câu chuyện được nhiều sách cũ chép lại, nhưng tất cả chỉ nhằm giải thích nguyên nhân tiền định về cái chết của vua Lê Thái Tông và Nguyễn Trãi, xoa dịu lòng tiếc thương Nguyễn Trãi và chán ghét nhà Lê nhỏ mọn đối với công thần. Đây là thuật tuyên truyền của tầng lớp thống trị hồi đó lợi dụng lòng mê tín của nhân dân, là mô phỏng từ các truyền thuyết xa xưa của Trung Quốc, nên ngày nay truyền thuyết bị bác bỏ và không được xác chứng.
   
“Lộ diện” hung thủ

Trong cuốn Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ với thảm án Lệ Chi Viên, các nhà sử học và một số nhà khoa học đã chỉ rõ, chủ mưu của vụ thảm án Lệ Chi Viên là Tuyên từ Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Anh, mẹ vua Lê Nhân Tông. Về động cơ, thứ nhất là do bà rất căm oán Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ - hai người đã giúp bà phi Ngô Thị Ngọc Dao, mẹ Lê Thánh Tông, thoát khỏi âm mưu sát hại của bà ta. Thứ hai là do thời đó, nhiều người trong triều dị nghị rằng, bà Nguyễn Thị Anh đã có thai trước khi vào cung và Bang Cơ (Lê Nhân Tông) không phải là con vua Thái Tông, nên nhân lúc vua về thăm Nguyễn Trãi, sợ Nguyễn Trãi gièm pha và nói tốt cho Tư Thành (Lê Thánh Tông), nên bà Nguyễn Thị Anh đã sai người sát hại vua Thái Tông, rồi đổ tội cho vợ chồng Nguyễn Trãi.

Theo sử sách, vài ngày sau khi hành hình gia đình Nguyễn Trãi, triều đình thực ra chính là Thái hậu Nguyễn Thị Anh nhiếp chính thay con, ra lệnh giết hai hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng vì trước khi chết Nguyễn Trãi có nói: "Ta hối không nghe lời Thắng, Phúc". Các nhà nghiên cứu cho rằng chính Đinh Phúc, Đinh Thắng là những người khuyên Nguyễn Trãi sớm tố cáo Nguyễn Thị Anh với vua Thái Tông. Do đó, để diệt khẩu, bà sai giết hai người này. Sâu xa hơn, thảm án Lệ Chi Viên còn là sự ghen ghét, đố kỵ của một số không nhỏ quan lại trong triều lúc bấy giờ trước tài năng lỗi lạc và tính tình ngay thẳng, cương trực của Nguyễn Trãi - được cho là luôn cản trở những việc làm mờ ám của họ.


Vậy là mấy trăm năm sau vụ án Lệ Chi Viên xảy ra, các nhà nghiên cứu lịch sử đã có được những chứng cứ có sức thuyết phục để minh oan cho Nguyễn Trãi mặc dù vẫn còn những chi tiết chưa thể làm rõ, ví dụ trước khi Nguyễn Trãi bị hành hình đã nói rằng hối hận vì không nghe theo lời Đinh Thắng. Vậy Đinh Thắng đã nói gì với Nguyễn Trãi mà khiến ông hối hận? Hẳn là phải chờ các nhà nghiên cứu tiếp tục tìm hiểu để làm rõ vấn đề.

Tông tích Nguyễn Thị Lộ (1390-1442)

     Nguyễn Thị Lộ vốn là con nhà có học thức, quê làng Hải Triều, một làng làm chiếu có tiếng, nay thuộc xã Phạm Lễ xưa thuộc huyện Ngự Thiên, (Thái Bình).
   
  Tương truyền, năm 1406, khi Nguyễn Trãi (26 tuổi) đang làm quan nhà Hồ, gặp Thị Lộ (16 tuổi) ở Vũ Lăng, thấy xin đẹp, liền ứng khẩu,  Nguyễn Trãi  yêu vì tài nên lấy làm thiếp. Thị Lộ không có con với Nguyễn Trãi, xin cháu của Ngô Từ là Ngô Chi Lan làm con nuôi. Ngô Chi Lan đổi tên là Nguyễn Hà Huệ, sau làm Lễ Nghi học sĩ trong cung Lê Thánh Tông, chồng là Phù Thúc Hoành, làm Bác sĩ giảng kinh sử Quốc Tử Giám.
Lai lịch Nguyễn Trãi (1380-1442)
Nguyễn Trãi gốc làng Nhị Khê, tỉnh Hà Đông, sinh năm 1380 ở Thăng Long, tại nhà ông ngoại là quan Tư-đồ Trần Nguyên Đán. Nguyên Đán có hai gái là Thái và Thai, nuôi hai nho sinh là Nguyễn Ứng Long dạy Thái, và Nguyễn Hán Anh dạy Thai. Hai thầy gian  díu với hai học trò. Thái có chửa, Ứng Long sợ bỏ trốn. Nguyên Đán gọi về, tha tội, và gả con cho. (2)
    Sau hai người đều thi đỗ. Ứng Long, cha Nguyễn Trãi, đỗ  bảng nhãn (1374)(3) mà Thượng hoàng Trần Nghệ Tông không cho làm quan, vì tội "thường dân mà thông dâm lấy con gái tông thất", nên phải về Nhị Khê sống nghề dạy học
Thời ấy, Lê Quí Ly, được Thượng-hoàng Nghệ Tông sủng ái, sàm tấu giết hại nhiều người, cả vua chúa vương thân cũng không trừ. Duy có Trần Nguyên Đán toàn gia được yên ổn, nhờ biết lo xa, kết thân gia với Lê Quí Ly. 
    Năm 1400, Quí Ly truất phế vua Trần Thiếu đế, chiếm ngôi, mở khoa thi Thái học sinh, Nguyễn Trãi thi đỗ ra làm quan, bổ làm Chánh chưởng đài Ngự sử. Năm 1402, Ứng Long đổi tên là Phi Khanh, cũng quan với nhà Hồ, với chức Hàn Lâm học sĩ. 
    Năm 1407, quân Minh mượn cớ phù Trần diệt Hồ để xâm chiếm nước ta. Hồ Quí Ly bị thua. Cuối tháng sáu năm 1407, giặc Minh  bắt  được cha con Hồ Quí Ly và một số quan, tướng trong đó có Phi Khanh, cha của Nguyễn Trãi, giải về Kim Lăng. Nguyễn Trãi theo cha đến điếm Vạn Sơn (tỉnh Hồ Bắc), rồi tuân lời cha trở về nước lo "trả thù nhà, rửa nhục nước", để em là Phi Hùng ở lại nuôi cha. 
    Theo Nhân Vật Chí  của Phan Huy Chú, Trương Phụ ép Phi Khanh viết thư gọi con, Nguyễn Trãi bắt đắc dĩ phải ra trình diện. Trương Phụ dụ Nguyễn Trãi ra làm quan  không được, muốn giết, Hoàng Phúc  can và tha song buộc Nguyễn Trãi phải ở Đông Quan, là nơi có đại bản doanh của chúng. Sau khi thoát ra khỏi Đông Quan, sau đó, Nguyễn Trãi làm gì? ở nơi nào? 
    Mãi đến khoảng 1416/1417, có tin Lê Lợi ở Thanh Hóa chuẩn bị mộ quân đánh giặc Minh, Nguyễn Trãi và em họ, Trần Nguyên Hãn, đến ra mắt. Nhưng Hãn thấy Lê Lợi "có tướng như Việt vương Câu Tiễn, chỉ có thể giúp trong lúc hoạn nạn, không thể ở với nhau khi sung sướng", nên cả hai bỏ ra về. Trong chuyến nầy có Thị Lộ cùng đi, phong cách lúc nào cũng tươi cười, nhẫn nại, hoạt bát, đoan chính, được  mọi người kính nể. (4)
    Thời gian sau, có tin Lê Lợi đứng lên khởi nghĩa, Nguyễn Trãi và Nguyên Hãn vào Lỗi Giang tìm Lê Lợi lần nữa (1420). Lần nầy, Hãn "lén thấy Lê Lợi uy nghiêm, khí tượng thay đổi ", bấy giờ Hãn mới dâng kiếm báu của nội tổ là Trần Quang Khải, còn Nguyễn Trãi dâng Bình Ngô sách, chủ trương "đánh vào lòng người" cuối cùng sẽ thắng. Lê Lợi  khen hay, dùng Nguyễn Trãi làm Hàn Lâm Thừa Chỉ, coi việc thảo văn thư, chiếu hịch, tham dự bộ tham mưu, và dùng Hãn làm  quan võ.
    Trong thời  kháng chiến, Lê Lợi và các quan tướng thường đem vợ con theo, nên khi Nguyễn Trãi thảo thư từ, chiếu hịch đều có Thị Lộ bên cạnh giúp việc sửa chép. (5)
    Năm 1428, kháng chiến toàn thắng, Nguyễn Trãi được tước hầu, làm Thượng thư bộ Lại (coi về nhân viên, quan lại). Nhưng năm sau vì  liên can với Trần Nguyên Hãn, (bị vua nghi, sai người bắt giết, Hãn nhảy sông tự tử), nên Nguyễn Trãi bị tù. Nhờ các đại thần can thiệp, Trãi được tha ra, làm quan lại một thời gian, rồi xin nghỉ việc về Côn Sơn.
 Năm 1433, Lê Lợi mất, Nguyên Long  10 tuổi, kế ngôi (Lê Thái Tông). Lê Sát làm đại tư đồ. Nguyễn Trãi được Thái Tông, theo di mệnh của Thái Tổ, gọi ra phụ chính, chức Gián nghị đại phu. (6)
    Theo Toàn Thư tục biên, Lê Sát thấy Thái Tông còn nhỏ, thích chơi bời, lười biếng học tập, liền lập một ban văn thần, trong số đó có Nguyễn Trãi, để thay phiên vào tòa Kinh Diên  dạy vua. Cả bọn đều bị Thái Tông  đuổi về. Sau đó, Lê Sát bị khép vào tội lộng quyền, vua cho được tự tử tại nhà.
    Trước tình trạng ấy, năm 1438, Thái-bảo Ngô Từ đưa ra ý kiến có lẽ Thị Lộ dịu dàng khéo léo, học giỏi, văn hay, may ra có thể giúp nhà vua chăm chỉ học hành. Sau khi hội ý với Nguyễn Trãi, Thị Lộ, Ngô Từ đưa Thị Lộ vào chầu Thái Tông, được vua nhận, phong làm Lễ Nghi học sĩ, ngày đêm kề cận tin dùng.
Trường Lạc Hoàng Hậu -Nguyễn Thị Anh (chữ Hán: 阮氏英; 1422 – 1459) là vợ thứ tư của vua Lê Thái Tông, là mẹ của vua Lê Nhân Tông (Lê Bang Cơ) trong lịch sử Việt Nam.
Vua Lê Thái Tông còn nhỏ lên ngôi nhưng đã tỏ ra là vị minh quân. Ông trọng dụng các đại thần chính trực như Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Đinh Liệt, giáng chức bè đảng Lê Sát, Lê Ngân. Vua Thái Tông có 4 người con là Nghi Dân, Khắc Xương, Bang Cơ, Tư Thành. Vì các hoàng tử đều còn quá nhỏ (chỉ chênh nhau một vài tuổi) nên đã xảy ra việc tranh chấp ngôi thái tử giữa các bà vợ vua Thái Tông. Nghi Dân là con Trưởng của vua, con của bà Dương thị vốn đã được lập làm thái tử từ nhỏ. Nhưng sau đó Nguyễn Thị Anh được vua sủng ái nên năm 1441 vua nghe lời, truất ngôi của Nghi Dân, lập con Thị Anh là Bang Cơ lên làm thái tử. Bà mẹ của Khắc Xương vốn không được vua sủng ái nên không thể tranh chấp ngôi thái tử. Tuy nhiên, nhiều người trong triều đình nghi rằng, Thị Anh đã có thai trước khi vào cung và Bang Cơ không phải là con vua Thái Tông. Cùng lúc đó, một bà phi khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại có mang sắp sinh. Thị Anh sợ chuyện bại lộ thì ngôi lớn sẽ thuộc về con bà Ngọc Dao nên tìm cách hại bà Ngọc Dao. Bà này được vợ chồng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ hết sức che chở, mang đi nuôi giấu và sinh được hoàng tử Lê Tư Thành năm 1442. Biết bà Ngọc Dao đã sinh con trai mà ngày càng nhiều người đồn đại về dòng máu của Bang Cơ, nhân lúc con mình còn đang ở ngôi đương kim thái tử, Thị Anh chủ động ra tay trước. Nhân dịp vua Thái Tông về thăm Nguyễn Trãi, sợ Nguyễn Trãi gièm pha mình và nói tốt cho Tư Thành nên Thị Anh sai người sát hại vua Thái Tông rồi đổ tội cho vợ chồng Nguyễn Trãi. (xem chi tiết Vụ án Lệ Chi Viên) Sau khi Thái Tông mất, Bang Cơ lên ngôi, tức là Lê Nhân Tông, Thị Anh được làm thái hậu, nắm quyền trị nước.
Năm 1453, vua con Nhân Tông lên 13 tuổi. Tháng 11 năm đó thái hậu Nguyễn Thị Anh rút vào hậu trường, giao lại triều chính cho con.
Vua Nhân Tông không phải là con đích của vua cha nên anh cả là Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân vẫn thường có lòng oán hận và muốn đoạt ngôi. Một số ý kiến cho rằng ngày càng có nhiều người dị nghị về nguồn gốc của Nhân Tông (không phải là con của Lê Thái Tông) nên càng thúc đẩy Lê Nghi Dân nổi loạn.
Lê Nghi Dân (1439 – 1460) là vua thứ tư nhà Lê sơ, ở ngôi từ năm 1459 đến 1460. Lê Nghi Dân là con trưởng vua Lê Thái Tông, mẹ là Dương Thị Bí.
Theo Đại Việt thông sử, Nhân Tông nghĩ Nghi Dân là anh ruột nên không có ý đề phòng gì cả. Ngày 3 tháng 10 năm Kỷ Mão (1459), Nghi Dân đang đêm cùng các thủ hạ bắc thang vào tận trong cung cấm giết vua Nhân Tông. Hôm sau thái hậu Nguyễn Thị Anh cũng bị hại. Năm đó bà 38 tuổi.


Lê Thánh Tông (chữ Hán: 黎聖宗; 20 tháng 7[1] năm Nhâm Tuất 1442 – 30 tháng 1 năm Đinh Tỵ 1497)[1], là vị Hoàng đế thứ năm của nhà Hậu Lê (tính cả Lê Bang Cơ và Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân) trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1460 đến 1497. Ông tên thật là Lê Tư Thành (黎思誠), còn có tên khác là Lê Hạo (黎灝). Ông nổi tiếng là vị minh quân, là người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông cũng được xem là một nhà văn hoá và một người coi trọng hiền tài.

Khi bà tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao có thai Lê Tư Thành, bà đã bị bà phi Nguyễn Thị Anh mưu hại. Nguyễn Trãi và người thứ thiếp là Nguyễn Thị Lộ đã cứu giúp Ngọc Giao và đưa đi lánh nạn taị vùng Quảng Ninh ngày nay. Lê Tư Thành được sinh ra ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất 1442, ở chùa Huy Văn (ngày nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội).
Lê Tư Thành vốn không phải là người sẽ kế vị, theo chính danh. Từ nhỏ, ông được giáo dục ở Quốc Tử Giám, giống như người anh cùng cha khác mẹ là Lê Nhân Tông (Lê Bang Cơ - con bà Nguyễn Thị Anh) đang làm vua Đại Việt.
Năm 1459, người anh cả cùng cha khác mẹ của Nhân Tông là Lê Nghi Dân tiến hành đảo chính và sát hại Lê Nhân Tông. Nghi Dân lên ngôi. Tư Thành không bị vua anh sát hại trong vụ này mà được cải phong làm Gia vương.
Chín tháng sau, một cuộc đảo chính thứ hai do Nguyễn Xí và Đinh Liệt cầm đầu đã giết chết Lê Nghi Dân. Nguyễn Xí và Định Liệt là 2 tướng thân cận của Lê Thái Tổ vẫn còn sống sót sau các biến cố chính trị kể từ khi vua Thái Tổ mất. Ban đầu, các đại thần định mời anh thứ hai của Tư Thành là Cung vương Lê Khắc Xương (em Nghi Dân, anh Bang Cơ) lên ngôi nhưng Khắc Xương từ chối không muốn nhận ngôi báu. Họ đề nghị Lê Tư Thành ra làm vua và ông đã chấp thuận. Về sau, vua Thánh Tông nghe lời gièm, Cung vương bị bức tử.
Ngày 8 tháng 6, năm Canh Thìn 1460, Lê Tư Thành lên ngôi, tức là vua Lê Thánh Tông, lấy niên hiệu là Quang Thuận. Năm đó, ông chỉ mới 18 tuổi. Ông chỉ định Nguyễn Xí và Đinh Liệt vào các chức quan cao nhất của triều đình, nắm giữ binh quyền.
Lê Thánh Tông trị vì Đại Việt 38 năm và dưới thời ông, đã để lại những giá trị văn hóa xã hội như Hồng Đức thiên hạ bản đồ, Hồng Đức hình luật, Thiên Nam dư hạ tập, Hồng Đức quốc âm thi tập v.v...
Năm 1464, ông rửa oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm thơ văn Nguyễn Trãi để lưu lại hậu thế. Năm 1464, Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi. Con cháu ông được tìm lại và bổ dụng. Người con út sinh ra sau khi ông qua đời là Nguyễn Anh Vũ được Lê Thánh Tông phong cho chức Đồng Tri Phủ huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa), cấp cho 100 mẫu ruộng gọi là "Miễn hoàn điền" (ruộng không phải trả lại) con cháu đời đời được hưởng. Nguyễn Anh Vũ xây dựng mộ chí của Nguyễn Trãi tại xứ đồng Tai Hà, làng Dự Quần, lấy sọ dừa, cành dâu táng làm cốt; lấy ngày mất của Nguyễn Trãi - 16 tháng 8 là ngày giỗ họ.
Lê Thánh Tông như đã tạc bia cho Nguyễn Trãi bằng câu thơ:
Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo
Tạm dịch:
Tâm hồn Ức Trai sáng tựa sao Khuê.

Triều Lê Sơ (1428-1527)

1. Lê Thái Tổ (Lê Lợi, 1428-1433)
2. Lê Thái Tông (Nguyên Long, 1433-1442)
3. Lê Nhân Tông (Bang Cơ, 1442-1459)
4. Lê Thánh Tông (Tư Thành,1460-1497)
5. Lê Hiến Tông (Lê Tăng,1498-1504)
6. Lê Túc Tông (Lê Thuần, 6/6/1504-7/12/1504)
7. Lê Uy Mục (Lê Tuấn,1505-1509)
8. Lê Tương Dực (Lê Oanh, 1509-1516)
9. Lê Chiêu Tông (Lê Ý, 1516-1522)
10. Lê Cung Hoàng (Lê Xuân, 1522-1527)
.


Tham khảo:



Chủ Nhật, 27 tháng 1, 2013

Những phong tục tập quán, sinh hoạt và tín ngưỡng ngày Tết


Phong tục ngày Tết

[sửa]Phong tục chỉ còn tồn tại phảng phất

  • Sêu Tết: Ngày xưa các cặp trai gái đang trong thời kỳ hứa hôn, trước Tết người con rể tương lai phải mang lễ đến biếu bố mẹ vợ.[39]
  • Trồng và hạ nêu: Trên cây treo một số vật tượng trưng gọi là bùa nêu để trừ tà quỷ.[39]
  • Hát sắc bùa: Sau giao thừa, trẻ em nhà nghèo tụ thành từng nhóm, đến cửa các nhà vừa hát vừa gõ trống. Chủ nhà bao giờ cũng mở cửa ra phát tiền mừng tuổi cho các em để hai bên cùng gặp hên.[39]
  • Gánh nước: Ngay sau Giao thừa hoặc sáng mồng Một, người nhà mang thùng ra sông hoặc ra giếng làng gánh nước về đổ đầy chum vại, với hy vọng sang năm mới “của cải như nước non”.[39]
  • Chúc Tết theo thứ tự: Chúc theo thứ tự Mồng một nhà trai, mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy. Ngày nay tùy theo thời tiết, đường sá, tiện bên nào thì đến bên đó trước.[39]
  • Lạy sống ông bà: Con cháu đến chúc Tết việc đầu tiên là phải vào quỳ lạy sống các cố và ông bà.[39]

[sửa]Phong tục vẫn đang tồn tại rộng rãi

Phong bì lì xì treo trên cây mai
  • Mua và xin câu đối trước Tết: Nhiều người ta mua một câu đối hay hoặc một vài chữ Nho mang ý nghĩa cầu an, cầu tài lộc cho năm mới.[39]
  • Mâm ngũ quả và bàn thờ gia tiên: Được bày biện cầu kỳ đầy đủ vật lễ. Người nội trợ có ý thức mua đủ 5 loại quả và trình bày sao cho đẹp mắt và có ý thể hiện vẻ sung túc của gia đình.[39]
  • Xông nhà: Người ta nhờ người hợp tuổi, hợp mệnh đến xông nhà, cầu mong sang năm lấy được vía tốt của người xông nhà.[39]
  • Chọn hướng xuất hành: Sau giao thừa, có người xuất hành đi du xuân luôn. Họ chọn một hướng tương hợp tương sinh với mình với con giáp của năm để xuất hành cầu tài đón lộc.[39]
  • Lễ chùa: Có người cả năm không đi lễ, nhưng đến Tết nhất thiết phải qua chùa thắp nén hương, dâng tiền giọt giầu hoặc tiền công đức cho chùa. Vào ngày đầu năm, tại chốn linh thiêng, người ta tin rằng điều cầu khấn của mình có nhiều khả năng thành hiện thực.[39]
  • Mua muối: Đầu năm mọi nhà đều mua muối để cầu may mắn đến.[40] Vẫn có câu là Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi.
  • Khai ấn và Khai bút: Đầu Xuân, nhằm vào ngày tốt, giờ tốt, người có chức tước khai ấn (đóng con dấu lần đầu tiên trong năm); học trò, sĩ phu khai bút (viết bài hoặc một đoạn văn, một câu thơ... đầu tiên trong năm); nhà nông khai canh, (cày ruộng, làm đất, trồng, cấy lần đầu tiên trong năm); người buôn bán thì "khai thương", (mở hàng lần đầu tiên trong năm)... Sau ngày mùng Một, dù có mải vui cũng chọn ngày để khai nghềlàm lấy ngày. Nếu như mùng Một tốt thì chiều mùng Một bắt đầu. Riêng khai bút thì Giao thừa xong, chọn giờ Hoàng đạo không kể mùng Một là ngày tốt hay xấu. Người thợ thủ công nếu chưa ai thuê mướn đầu năm thì cũng tự làm cho gia đình một sản phẩm, một dụng cụ gì đó. Người buôn bán, vì ai cũng chọn ngày tốt nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc dầu người bán chỉ bán lấy lệ, người ta thuờng chợ Tết cùng với du xuân (đi chơi Tết).
  • Đi lễ chùa và xin xăm (miền Bắc gọi là xin thẻ): Không ai biết chắc chắn phong tục này có từ bao giờ và tại sao nhưng trong những ngày đầu năm âm lịch thì rất nhiều người thích đi lễ ở các lăng tẩm, đền chùa để cúng bái và xin xăm nhất là vào buổi sáng mồng một, phong tục này thường được tiến hành chung với tục lệ chọn hướng xuất hành và hái lộc. Xin xăm là một hình thức tin vào các thẻ xăm có ghi lời sấm báo trước điềm lành hay dữ trong năm và thường cần có thầy bàn xăm. Ở miễn Bắc có tục "bốc quẻ thẻ" giống như tục "xin xăm" ở phía Nam. Người xin thẻ dâng một lễ mọn rồi chọn lấy một quẻ thẻ bằng tre viết chữ Hán. Trên quẻ thẻ thường ghi một câu văn ngắn gọn rút từ điển tích Trung Hoa cổ. Căn cứ câu văn ấy, người xin thẻ có thể luận ra "tiền định" cuộc đời mình trong năm đó. Nếu không thông thạo Hán Văn, có thể thuê thầy đồ luận giải giúp. Ngày nay, người ta thường bỏ thẻ tre và thay vào đó bằng những tờ bướm in chữ quốc ngữ với lời giải được soạn sẵn.

[sửa]Sinh hoạt ngày tết

  • Áo quần mới: Ngày xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà các mẹ trong nhà phải thức khuya quay tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà. Công việc này thường kết thúc vào ngày cuối năm. Đến sáng mùng Một Tết, cả nhà dậy sớm, thay quần áo mới để làm lễ gia tiên. Người ta cho rằng cần phải rũ bỏ những cái cũ, cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón một năm mới với nhiều hi vọng và niềm vui mới từ bộ quần áo mới đó.[41]
  • Dọn dẹp nhà cửa trước Tết: Do tục kiêng cữ quét nhà trong ngày Tết.[42] Theo quan niệm dân gian, việc quét nhà trong ngày Tết sẽ quét đi theo cả lộc xuân (xác pháo đốt trong đêm giao thừa), người quét nhà sẽ bị "rông" cả năm; (rông: được hiểu như sự xui xẻo).
  • Trả nợ cũ: Đối với nhiều người Việt, dịp tất niên là dịp trả nợ cũ, xóa bỏ xích mích của năm cũ, để hướng tới năm mới vui vẻ hòa thuận hơn.[42]
  • Treo quốc kỳ: Những năm sau ngày thống nhất đất nước, tại Việt Nam, ngày tết cũng như các ngày lễ trong năm, chính phủ đều khuyến khích treo quốc kỳ. Các công sở, công ty, trường học, nơi sinh hoạt công cộng thường treo quốc kỳ kèm bích chương "Chúc mừng năm mới" và các loại cờ ngũ sắc.
  • Trò chơi dân gian: bịt mắt bắt dêmúa võhát bộihát cải lươnghát chèođánh đu, thi leo cột mỡ, đập niêu, chọi gà; bài chòi; chơi tổ tôm điếm; chơi cờ nguời và nhiều trò dân gian cổ truyền khác.
  • Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp Tết thì tam cúccờ gánhcờ nhảychắntổ tôm... ai thích trò nào chơi trò ấy. Đến lễ khai hạ (hạ nêu) thì xé bộ tam cúc, cất bộ tổ tôm...hoặc đốt các bộ bài trong lễ hóa vàng.
  • Cúng đưa và Hạ nêu: Trong những ngày Tết, người Việt quan niệm rằng có sự hiện diện của Ông Bà tổ tiên nên bàn thờ luôn được thắp hương và cúng cơm mỗi ngày. Thường thì chiều mồng Bốn hay mồng Năm cúng tiễn đưa Ông Bà, chiều mồng Bảy cúng hạ nêu.
  • Đốt pháo thường hay có trong dịp cúng tất niên hay thời khắc giao thừa ngày Tết cổ truyền. Từ năm 1994, nhà nước Việt Nam đã cấm đốt pháo, buôn bán và nhập khẩu pháo bằng Chỉ thị số 406/CT-TTg ngày 8 tháng 8[43] vì tính chất nguy hiểm dễ gây sát thương của nó. Thay vào đó, chính quyền tổ chức các đêm bắn pháo hoa cho người dân thưởng thức.

[sửa]Lễ hội Tết

Trái dưa hấu khổng lồ tạiĐường hoa Nguyễn Huệ2009
Các lễ hội truyền thống khác như thi đấu cờ ngườiđua thuyềnđấu vậtđánh cònmúa lânmúa rồng, thi thả chim bồ câu ... tùy theo bản sắc văn hóa của mình, mỗi địa phương đều tổ chức lễ hội ngày tết với những phần "lễ" và phần "hội" chứa đựng những nét văn hóa khác nhau rất phong phú.
Từ năm 2004, tại phường Bến Nghéquận 1 thuộc Thành phố Hồ Chí Minh có Đường hoa Nguyễn Huệ và từ năm 2009, tại phường Tràng Tiềnvà Lý Thái Tổ thuộc quận Hoàn KiếmHà Nội có Lễ hội phố hoa Hà Nội để trang hoàng hoa cho khách thưởng ngoạn. Tại phường 7 thuộc địa phận thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang có Đường hoa Hùng Vương.
Ngoài hội Tết, nhiều địa phương còn tổ chức các lễ hội mùa Xuân đặc biệt, chẳng hạn như:
Tại thủ đô Hà Nội, vào ngày mùng 5 Tết, lễ hội Quang Trung được tổ chức ở gò Đống Đa, thuộc địa phận phường Quang Trung, quận Đống Đa.[44] và lễ hội Cổ Loa tại xã Cổ Loa thuộc huyện Đông Anhlễ hội chùa Hương tại xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức ngày mùng 4.
Các nơi khác có Chợ Âm Dương mùng 4 ở phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh và Chợ Viềng mùng 7 tại xã Kim Thái, huyệnVụ Bản và tại thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực thuộc tỉnh Nam Định, Hội xuân Núi Yên Tử ở xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí thuộc tỉnh Quảng Ninh.
Tại làng cổ Vân Luông thuộc phường Vân Phú nằm ở thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ có hội ném đá, gọi là Ném Chài vào ngày 3 tháng giêng. Từ năm 1946 hội Ném Chài thôi tổ chức vì nguy hiểm tính mạng. Năm 2004 lễ hội được phục hồi nhưng thay ném đá bằng túi vải đựng cát.[45]
Tại xã Đông Hoàng, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa có phiên chợ Chuộng tổ chức vào mùng 6 tết, người dân đến mua bán một số sản vật nông nghiệp để lấy may, còn thanh niên thì đánh nhau để cầu may.[45]

[sửa]Tín ngưỡng ngày tết

[sửa]Điềm lành

  • Hoa mai: sau Giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó là một điềm may. Và may mắn hơn nữa khi có một hoặc vài bông hoa 6 cánh.[46][47]
  • Chó lạ vào nhà: Tục ngữ Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì sang.[46]
  • Cây đào: Nếu có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên đài hoa và có hình dáng như bông hồng thì sẽ có nhiều phúc lộc.[46]
Cây đào đặt trên bàn thờ Tổ tiên.
  • Cây quất: Nếu cây có nhiều chồi xanh mọc thì năm đó sẽ có nhiều lộc. Nếu có đủ Tứ quý: Quả chín, quả xanh, hoa và lộc thì sẽ may mắn và thành đạt cả năm.[48]
Cây quất đặt trong phòng khách.

[sửa]Kiêng kỵ

Theo quan niệm trong ngày đầu năm (Nguyên Đán) mà có nhiều điều tốt đẹp thì cả năm đó chắc chắn sẽ có nhiều điều tốt đẹp đến cho mọi người, do đó, người Việt có một số kiêng kỵ như sau:
  • Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình phải tạm gác mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc. Vì vậy có tục lệ cất khăn tang trong ba ngày Tết. Nhà có đại tang kiêng đi chúc Tết, mừng tuổi bà con, xóm giềng, ngược lại bà con xóm giềng lại cần đến chúc Tết và an ủi gia đình bất hạnh.[49]
    Trường hợp gia đình có người chết vào ngày 30 tháng chạp mà gia đình có thể định liệu được thì nên chôn cất cho kịp trong ngày đó, đa số các gia đình kiêng để sang ngày mùng Một đầu năm.
    Trường hợp chết đúng ngày mùng Một Tết thì chưa phát tang vội nhưng phải chuẩn bị mọi thứ để sáng mùng Hai làm lễ phát tang.
  • Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình, vì quan niệm lửa là đỏ là may mắn. Cho người khác cái đỏ trong ngày mùng Một Tết thì cả năm đó trong nhà sẽ gặp nhiều điều không may như làm ăn thua lỗ, trong nhà lủng củng, ra đường hay gặp tai bay vạ gió...[50]
  • Kiêng cho nước đầu năm vì nước được ví như nguồn tài lộc trong câu chúc tiền vô như nước, nếu cho nước thì coi như mất lộc.[50]
  • Trong ngày này, người ta kiêng quét nhà vì theo một điển tích của Trung Quốc, nếu quét nhà thì năm đó gia cảnh sẽ nghèo túng, khánh kiệt. Khi hốt rác trong nhà đổ đi thì thần Tài sẽ đi mất.[50]
  • Ngày đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ việc vay mượn hay trả nợ, cho vay. Người xưa quan niệm không nên vay tiền hoặc đồ đạc vào những ngày đầu năm mới, điều đó có thể làm chúng ta rơi vào cảnh túng thiếu cả năm, không may mắn.[49]
  • Trong ăn uống, người ta kiêng ăn thịt chócá mè, thịt vịt... Nếu ăn những thứ này vào dịp đầu năm hay đầu tháng sẽ "xúi quẩy".
  • Ngoài ra, người già cũng khuyên con cháu trong ngày này không được đánh vỡ bát đĩa, ấm chén, cãi nhau, chửi nhau, kiêng những điều không vui xảy ra với gia đình.[49]
  • Người ta thường kiêng khóc lóc, buồn tủi hoặc nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa trong dịp Tết.[49]
  • Kiêng mặc quần áo màu trắng, đen: Theo quan niệm của người xưa, màu trắng và đen là màu của tang lễ, chết chóc, vì vậy những ngày đầu năm thì phải mặc trang phục với những màu sắc sặc sỡ và thu hút sự chú ý, tạo nên sự phấn khởi và vui vẻ để đón chào năm mới, như: màu hồng, đỏ, vàng, xanh...[49]
  • Kiêng nói to, cãi nhau, nói xấu hay mắng người khác.[49]
  • Kiêng đi chúc Tết vào sáng Mồng Một Tết nếu không được gia chủ mời vì sợ sẽ mang đến điều không tốt đẹp cho chủ nhà trong năm mới. Theo phong tục xông đất, người đầu tiên bước vào nhà ai trong ngày mùng một Tết chính là người quyết định đem lại sự may mắn hoặc xui xẻo cho gia đình ấy trong cả năm.[49]
  • Ngày mồng 5 tháng giêng Âm lịch là ngày nguyệt kỵ, người Việt thường tin rằng ngày này không thích hợp cho xuất hành.[51]