Thứ Năm, 10 tháng 5, 2012

Rượu Minh Mạng, Ông uống Bà khen!

Có 13 đời Vua Nguyễn:

1.Vua gia Long (1802-1819) Tên thật là Nguyễn Phúc Ánh, con thứ 3 của Nguyễn Phúc Luân và Nguyễn Thị Hoàn. Sinh ngày 15.01 Nhâm Ngọ(08/02/1762) Vợ là Trần Thị Đang,có 13 con trai và 18 con gái.

2. Vua Minh Mạng(1820-1841). Con thứ tư của Gia Long. Sinh ngảy2/4 Tân Hợi(25/5/1791). có nhiều vợ, 142 người con( 78 Hoàng tử và 64 Hoàng Nữ).

3. Vua Thiệu Trị(1841-1847). Tên thật laNguyễn Phúc Miên Tông; Hoàng tử trưởng của vua Minh Mạng và bà Hồ Thị Hoa. Sinh ngay1.5 Đinh Mão(16/6/1807). Có nhiều vợ, 31 bà có con, 29 Hoàng Tử và 35 Hoàng Nữ.

4. Vua Tự Đức (1847-1883). Tên thật Nguyễn Phúc Hồng Nhậm...
5. Vua Dục Đức (17.7 đến 20.7.1883)
6. Vua Hiệp Hòa (6.1883-11.1883)
7. Vua Kiến Phước(12-1983-6.1984)
8. Vua Hàm Nghi (8.1984-7.1985)
9.Vua Đồng Khánh(1885-1888)
10.Vua Thành Thái(1889-1907)
11.Vua Duy Tân (1907-1916)
12. Vua Khải Định (1916-1925)
13. Vua Bảo Đại (1926-1945)
Vài nét về Vua Minh Mạng (1791 - 1840):
Vua Minh Mạng tên là Nguyễn Phúc Ðảm, sanh năm Tân Hợi (1791) tại làng Tân Lộc, tỉnh Gia Ðịnh, con thứ tư của vua Gia Long và bà Thuận Thiên Trần Hoàng hậu. Khi Hoàng tử Cảnh mất thì Ngài được lập làm Thái tử, khi vua Gia Long băng hà, theo di chiếu Ngài lên nối ngôi, lúc nầy đã 30 tuổi và đổi niên hiệu là Minh Mạng.

Ngài tiếp tục việc tu sửa lại kinh thành Huế, công trình kiến trúc quan trọng nhất dưới thời Minh Mạng là cửa Ngọ Môn. Các sách đều khen ông là một nhà vua văn võ kiêm toàn (!). Minh Mạng bắt đầu một cuộc cải cách từ nội trị đến ngoại giao.

Về mặt nội trị, nhà vua bỏ hầu hết các dinh, các trấn mà thành lập các tỉnh. Năm 1831 cả nước có 31 tỉnh, thủ đô Hà Nội có tên từ lúc này! 
Thành lập Nội các và Cơ Mật Viện để cùng với vua bàn chuyện nước (tới thời Bảo Ðại mới bị giải tán).
Lập Quốc Tử Giám. Bắt đầu mở các khóa thi Hội, thi Ðình để lấy tiến sĩ (tới thời Khải Ðịnh mới bị giải tán, nhà văn Ngô Tất Tố_tác phẩm Tắt Đèn, là người vinh dự được dự kỳ thi cuối cùng này năm 1919).
Lập Quốc sử quán để góp nhặt những chuyện làm quốc sử. Phát thưởng cho những ai tìm được sách củ hay làm ra sách mới v.v...
Các nước láng giềng xa gần đều gởi sứ thần đến thông hiếu và vua cũng cử nhiều phái đoàn đến các nước đó để ban giao. Năm Mậu Tuất (1838) vua Minh Mạng đổi tên nước là Ðại Nam.

Ngài không thích đạo Thiên Chúa nên không cho người ngoại quốc vào giảng đạo ở trong nước, Ngài có ra dụ (sắc lệnh) nói rằng : "Ðạo phương Tây là tả đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo". Lúc bấy giờ không phải là một mình vua ghét đạo Thiên Chúa mà thôi, phần nhiều những quan lại cũng đều một ý cả, cho nên sự cấm đạo lại càng nghiệt thêm. Nhưng mà dẫu cắm thế nào mặc lòng, vẫn có người đi giảng đạo Thiên Chúa, nhà vua lấy điều đó làm trái phép nên ra dụ lần nữa nói rằng ai bắt được giáo sĩ đem nộp thì được thưởng. Năm ấy ở Huế có một người giáo sĩ phải xử giảo, và các nơi cũng rối loạn vì sự bắt đạo và giết đạo. Việc cấm đạo nầy cứ dai-đẳng mãi đến khi nước Pháp sang bảo hộ mới thôi.

Cũng vì việc cấm đạo Thiên Chúa cho nên sự buôn bán với người nước ngoài cũng bị cản trở vì Triều đình thấy thỉnh thoảng khi có chiếc tàu buôn lại thì lại có một vài người giáo sĩ Thiên Chúa giáo trên đó nên càng lạnh nhạt với người nước ngoài. Vua từ chối không tiếp một tàu ngoại quốc nào cả ngay cả tàu Pháp. Hai ông quan người Pháp (Chaigneau và Vannier) làm trong triều đình từ thời Gia Long thấy vua Minh Mạng có vẻ không thích người ngoại quốc nên cũng xin từ chức rồi đem gia đình trở về Pháp.

Sau nầy vua Pháp có gởi sứ giả sang xin ban giao với Việt Nam nhưng vua Minh Mạng không tiếp, nước ta coi như bế quan tỏa cảng từ đó.
 
Trong đời sống riêng tư, người ta cũng phải ngạc nhiên về sức cường tráng của ông. Không có tài liệu cho biết chân dung và thể lực của ông như thế nào, chỉ biết ông có nhiều vợ và rất đông các phi tần. Có một bài thuốc bổ dương mang tên Minh Mạng thang được quan Thái y căn cứ vào thể chất và sinh hoạt của ông để lập ra thang thuốc rượu.

Ông không đặt hoàng hậu, mà chỉ cao nhất là hoàng phi. Tả Thiên Nhân hoàng hậu (tước vị được phong sau khi mất) tên húy Hồ Thị Hoa, còn có tên là Thật, sinh 1791. Bà qua đời năm 1807, 13 ngày sau khi sinh hạ Hoàng tử trưởng Nguyễn Phúc Miên Tông (tức vua Thiệu Trị sau này). Lăng của bà hiệu là Hiếu Đông Lăng, phía tả lăng Thiệu Trị tại làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
 
Vua Minh Mạng mất năm Canh Tí (1840), thọ 50 tuổi, trị vì được 21 năm....
(Còn tiếp)
 
Công thức rượu thuốc Minh Mạng (Báo Thanh Niên):
 
Trong những phương thuốc do quan ngự y soạn cho vua Minh Mạng, mỗi bài có rất nhiều vị thuốc, thường là từ 20 loại trở lên, có bài bao gồm cả 60-70 vị. Bài ít nhất cũng trên 10 vị thuốc.
Sau đây là bài rượu thuốc Minh Mạng "Đại bổ thận dương", theo lương y Nguyễn Công Đức. Bài thuốc này có công dụng tăng cường khí lực, tạo hưng phấn thần kinh, bồi bổ khí huyết, tăng khả năng sinh lý; dùng chủ trị các trường hợp cơ thể suy nhược lâu ngày, đau lưng, mỏi gối, suy sinh dục...
Thành phần gồm: 20 g nhân sâm, 12 g nhục thung dung. Ngưu tất, cốt toái bổ, chích hoàng kỳ, táo nhân, trần bì mỗi vị 2 chỉ - tương đương 8 g. Đỗ trọng, đơn sâm, xuyên khung, cam cúc hoa, sinh địa, thạch hộc mỗi vị 3 chỉ, tương đương12 g. Đương quy, cẩu kỷ tử, tục đoạn, thục địa mỗi vị 20 g. Ngoài ra có 10 g đẳng sâm cùng 10 quả đại táo và 120 g đường phèn.
Cách chế biến: Đem ngâm các vị thuốc trên với 5 lít rượu nếp loại ngon, ngâm trong 7 ngày đêm. Đường phèn nấu với nửa lít nước sôi, nấu cho đường tan hết ra, để nguội, rồi cho vào bình rượu đã ngâm các vị thuốc trên. Đợi đến 3 tuần sau là có thể đem ra dùng được.
Ngày dùng 3 lần (mỗi lần 1 cốc nhỏ độ 30 ml), uống trước các bữa ăn sáng, trưa, tối. Lưu ý là phải đủ các vị thuốc và đúng liều lượng mới cho hiệu quả cao.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét